Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Nê-hê-mi 10-11

10 Trên mặt văn kiện được đóng ấn ấy có tên của Tổng Trấn Nê-hê-mi con của Ha-ca-li-a, và Xê-đê-ki-a, Sê-rai-a, A-xa-ri-a, Giê-rê-mi, Pát-khua, A-ma-ri-a, Manh-ki-gia, Hát-túc, Sê-ba-ni-a, Manh-lúc, Ha-rim, Mê-rê-mốt, Ô-ba-đi-a, Ða-ni-ên, Ghin-nê-thôn, Ba-rúc, Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min, Ma-a-xi-a, Bin-gai, Sê-ma-gia. Ðây là các tư tế.

Những người Lê-vi có Giê-sua con của A-xa-ni-a, Bin-nui một trong các con của Hê-na-đát, Cát-mi-ên, 10 và những người cộng sự của họ gồm: Sê-ba-ni-a, Hô-đi-a, Kê-li-ta, Pê-la-gia, Ha-nan, 11 Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bi-a, 12 Xác-cua, Sê-rê-bi-a, Sê-ba-ni-a, 13 Hô-đi-a, Ba-ni, và Bê-ni-nu.

14 Các nhà lãnh đạo của dân có Pa-rốt, Pa-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni, 15 Bun-ni, A-xơ-gát, Bê-bai, 16 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đin, 17 A-te, Hê-xê-ki-a, A-xua, 18 Hô-đi-a, Ha-sum, Bê-xai, 19 Ha-ríp, A-na-thốt, Nê-bai, 20 Mặc-pi-ách, Mê-su-lam, Hê-xia, 21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Gia-đua, 22 Pê-la-ti-a, Ha-nan, A-na-gia, 23 Hô-sê, Ha-na-ni-a, Hạc-súp, 24 Ha-lô-hết, Pin-ha, Sô-béc, 25 Rê-hum, Ha-sáp-na, Ma-a-sê-gia, 26 A-hi-a, Ha-nan, A-nan, 27 Manh-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na.

Tóm Lược Giao Ước

28 Những người còn lại trong dân gồm các tư tế, những người Lê-vi, những người giữ cửa, những người ca hát, những người phục vụ trong Ðền Thờ, và tất cả những ai đã tự tách rời ra khỏi các dân khác chủng tộc trong xứ để hết lòng vâng giữ luật pháp của Ðức Chúa Trời đã cùng với vợ, các con trai, các con gái, và tất cả thiếu niên đủ hiểu biết 29 hiệp với những người thân của họ, tức những nhà quyền quý, để lập một lời nguyền rủa và một lời thệ nguyện, hầu bước đi trong luật pháp của Ðức Chúa Trời, là luật đã ban cho Môi-se tôi tớ của Ðức Chúa Trời, vâng giữ và thực thi mọi điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, cùng các luật lệ và các mạng lịnh của Ngài.

30 Chúng tôi sẽ không gả con gái chúng tôi cho dân trong xứ và cũng không cưới con gái của họ cho con trai chúng tôi.

31 Nếu các dân khác chủng tộc trong xứ mang các hàng hóa hay lúa gạo đến bán trong ngày Sa-bát, chúng tôi sẽ không mua của họ bất cứ vật gì trong ngày Sa-bát hay trong ngày lễ thánh.

Cứ mỗi năm thứ bảy chúng tôi sẽ nghỉ canh tác và sẽ xóa mọi món nợ của nhau.

32 Chúng tôi tự buộc mình mỗi năm phải đóng góp một số tiền nhất định[a] để trang trải các chi phí cho việc phục vụ nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi. 33 Ðó là các chi phí để làm bánh dâng trên bàn thờ hằng tuần,[b] những của lễ chay định kỳ, những của lễ thiêu định kỳ, chi phí cho những ngày Sa-bát, những ngày lễ đầu tháng, những ngày đại lễ, mua sắm những vật thánh, chi phí cho những của lễ chuộc tội để chuộc tội cho dân I-sơ-ra-ên, và những chi phí khác cho mọi công việc của nhà Ðức Chúa Trời chúng tôi.

34 Chúng tôi cũng bắt thăm giữa vòng các tư tế, những người Lê-vi, và dân chúng để dâng củi và mang củi đến nhà Ðức Chúa Trời chúng tôi, cứ theo từng chi tộc, vào những thời điểm nhất định, năm này qua năm khác, để đốt trên bàn thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, y như đã ghi trong luật pháp.

35 Chúng tôi cũng tự buộc mình hằng năm phải đem đến dâng trong nhà Chúa những hoa quả đầu mùa của ruộng đất chúng tôi và những trái cây đầu mùa của mọi cây ra trái của chúng tôi.

36 Chúng tôi sẽ đem đến nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, tức đem đến cho các tư tế đang thi hành chức vụ trong nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, con trai đầu lòng của chúng tôi và con vật đầu lòng của súc vật chúng tôi, y như đã ghi trong luật pháp, tức các con vật đầu lòng của đàn bò đàn lừa chúng tôi và của đàn chiên đàn dê chúng tôi.

37 Ngoài ra chúng tôi sẽ đem phần bột thượng hạng, những của dâng, những trái cây của mỗi cây, rượu và dầu đến các tư tế, tức đem vào các kho của nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, và đem đến những người Lê-vi một phần mười các sản vật của ruộng đất chúng tôi, vì những người Lê-vi được hưởng nhận các của dâng một phần mười trong các thành ở miền quê. 38 Một tư tế trong dòng dõi của A-rôn sẽ có mặt với những người Lê-vi khi những người Lê-vi tiếp nhận các của dâng một phần mười. Những người Lê-vi sẽ lấy ra một phần mười từ các của dâng một phần mười để đem đến nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, tức đem đến các phòng chứa của nhà kho. 39 Dân I-sơ-ra-ên và các con cháu Lê-vi sẽ đem các của dâng lấy ra từ gạo, rượu, và dầu mang đến các phòng chứa, nơi có các vật dụng của đền thánh, nơi các tư tế thi hành chức vụ, và nơi những người giữ cửa và những người ca hát phục vụ. Chúng tôi sẽ không bỏ bê nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi.

Dân Số trong Thành Giê-ru-sa-lem Gia Tăng

11 Bấy giờ những người lãnh đạo của dân ở tại Giê-ru-sa-lem và dân còn lại đã bắt thăm với nhau, để cứ mười người thì một người sẽ sống tại thành thánh Giê-ru-sa-lem, còn chín người kia vẫn cứ sống trong các thành khác. Dân chúc phước cho những người tình nguyện dọn đến sống ở Giê-ru-sa-lem. Sau đây là danh sách các quan chức hàng tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem, nhưng dân I-sơ-ra-ên, các tư tế, những người Lê-vi, những người phục vụ Ðền Thờ, và dòng dõi của các tôi tớ Sa-lô-môn đều sống trong các thành của Giu-đa, ai nấy sống trong đất của mình và trong thành của mình.

Tại Giê-ru-sa-lem có một số con cháu của Giu-đa và một số con cháu của Bên-gia-min đến định cư.

Trong chi tộc Giu-đa có A-tha-gia con của U-xi-a, con của Xa-cha-ri-a, con của A-ma-ri-a, con của Sê-pha-ti-a, con của Ma-ha-la-lên, con cháu của Pê-rê, và Ma-a-sê-gia con của Ba-rúc, con của Côn Hô-xê, con của Ha-xa-gia, con của A-đa-gia, con của Giô-gia-ríp, con của Xa-cha-ri-a, con cháu của Si-lô-ni. Tổng số con cháu của Pê-rê sống tại Giê-ru-sa-lem được bốn trăm sáu mươi tám người dũng mãnh.

Trong chi tộc Bên-gia-min có Sanh-lu con của Mê-su-lam, con của Giô-ết, con của Pê-đa-gia, con của Cô-la-gia, con của Ma-a-sê-gia, con của I-thi-ên, con của Giê-sa-gia. Cùng đi theo ông có Ga-bai và Sanh-lai. Tất cả gồm chín trăm hai mươi tám chiến sĩ. Người chỉ huy đội quân này là Giô-ên con của Xích-ri; Giu-đa con của Ha-sê-nu-a làm phó thị trưởng.

10 Trong vòng các tư tế có Giê-đa-gia con của Giô-gia-ríp, Gia-kin, 11 Sê-ra-gia con của Hinh-ki-a, con của Mê-su-lam, con của Xa-đốc, con của Mê-ra-giốt, con của A-hi-túp, người quản lý nhà Ðức Chúa Trời, 12 cùng với những người bà con dòng họ của họ làm việc trong Ðền Thờ, tổng cộng được tám trăm hai mươi hai người. Ngoài ra có A-đa-gia con của Giê-rô-ham, con của Pê-la-li-a, con của Am-xi, con của Xa-cha-ri-a, con của Pát-khua, con của Manh-ki-gia, 13 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy, những tộc trưởng trong gia tộc của họ, tổng cộng được hai trăm bốn mươi hai người. Cũng có A-ma-sai con của A-xa-rên, con của A-xai, con của Mê-sin-lê-mốt, con của Im-me, 14 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy, những chiến sĩ dũng mãnh, tổng cộng được một trăm hai mươi tám người. Người lãnh đạo của họ là Xáp-đi-ên con của Ha-ghê-đô-lim.

15 Trong vòng những người Lê-vi có Sê-ma-gia con của Hạc-súp, con của A-xơ-ri-cam, con của Ha-sa-bi-a, con của Bun-ni. 16 Sa-bê-thai và Giô-xa-bát là hai người lãnh đạo của người Lê-vi làm những việc bên ngoài nhà Ðức Chúa Trời. 17 Mát-ta-ni-a con của Mi-ca, con của Xáp-đi, con của A-sáp, là trưởng ban hướng dẫn hội chúng dâng lời cầu nguyện cảm tạ; Bạc-bu-ki-gia làm phó ban trong vòng những người bà con dòng họ của ông ấy. Ngoài ra còn có Áp-đa con của Sam-mua, con của Ga-lanh, con của Giê-đu-thun. 18 Tổng số những người Lê-vi phục vụ trong thành thánh được hai trăm tám mươi bốn người.

19 Trong vòng những người giữ cửa có Ạc-cúp, Tanh-môn, và những người bà con dòng họ của họ lo việc canh gác ở các cửa, tổng cộng được một trăm bảy mươi hai người.

20 Những người còn lại của dân I-sơ-ra-ên, cùng với các tư tế và những người Lê-vi, tất cả đều sống trong các thành của Giu-đa, ai nấy đều sống trong sản nghiệp của mình. 21 Nhưng những người phục vụ Ðền Thờ đều sống ở Ô-phên. Xi-ha và Ghích-pa là hai người chỉ huy của họ.

22 Người lãnh đạo tất cả những người Lê-vi ở Giê-ru-sa-lem là U-xi con của Ba-ni, con của Ha-sa-bi-a, con của Mát-ta-ni-a, con của Mi-ca, tức con cháu của A-sáp, dòng dõi của những người phụ trách việc ca hát thờ phượng Ðức Chúa Trời tại Ðền Thờ. 23 Về những người ca hát thờ phượng, vua truyền lịnh phải cung cấp một phần cố định hằng ngày cho họ.

24 Ngoài ra Pê-tha-hi-a con của Mê-sê-xa-bên, dòng dõi của Xê-ra, con cháu của Giu-đa, đã được vua lập làm người giải quyết mọi việc cho dân.

Các Vùng Ðịnh Cư Bên Ngoài Giê-ru-sa-lem

25 Về các làng mạc và các cánh đồng trực thuộc, một số con cháu của Giu-đa định cư tại Ki-ri-át Ạc-ba và các thị trấn trực thuộc, Ði-bôn và các thị trấn trực thuộc, Giê-cáp-xê-ên và các làng trực thuộc, 26 Giê-sua, Mô-la-đa, Bết Pê-lết, 27 Ha-xa Su-anh, Bê-e Sê-ba và các thị trấn trực thuộc, 28 Xích-lắc, Mê-cô-na và các thị trấn trực thuộc, 29 Ên Rim-môn, Xô-ra, Giạc-mút, 30 Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng trực thuộc, La-kích và những cánh đồng trực thuộc, A-xê-ca và các làng trực thuộc. Như vậy con cháu của Giu-đa định cư từ Bê-e Sê-ba cho đến Thung Lũng của Hin-nôm.

31 Con cháu của Bên-gia-min định cư từ Ghê-ba trở đi, tại Mích-mát, Ai-gia, Bê-tên và các làng trực thuộc, 32 A-na-thốt, Nốp, A-na-ni-a, 33 Ha-xơ, Ra-ma, Ghi-ta-im, 34 Ha-đi, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lốt, Ô-nô, và Thung Lũng của Các Nghệ Nhân.

36 Một số gia tộc người Lê-vi được cắt cử từ Giu-đa đến sống giữa người Bên-gia-min.

Công Vụ Các Sứ đồ 4:1-22

Phi-rơ và Giăng trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái

Khi họ còn đang nói với dân, các tư tế, viên sĩ quan chỉ huy cảnh binh đền thờ, và những người Sa-đu-sê ập đến. Họ rất bực tức vì hai ông đã dạy cho dân và rao giảng về sự sống lại của người chết trong Ðức Chúa Jesus. Họ bắt các ông và giam vào ngục, định hôm sau sẽ đem ra xét xử, vì lúc ấy trời đã tối. Nhưng nhiều người đã tin sau khi nghe sứ điệp của họ; và số nam tín hữu lên đến khoảng năm ngàn người.

Hôm sau các quan chức, các trưởng lão, và các thầy dạy giáo luật họp nhau tại Giê-ru-sa-lem, cùng với Thượng Tế An-nát, Cai-a-pha, Giăng, A-léc-xan-đơ, và nhiều người trong gia tộc của thượng tế. Họ điệu các ông ra, bắt đứng giữa, rồi tra hỏi, “Bởi thẩm quyền nào hay nhân danh ai các anh làm điều này?”

Bấy giờ Phi-rơ được đầy dẫy Ðức Thánh Linh và nói với họ:

“Kính thưa quý vị lãnh đạo của dân, kính thưa quý vị trưởng lão:

Nếu ngày nay chúng tôi bị xét xử vì đã làm một việc tốt cho một người bị tật nguyền rằng làm thể nào người ấy được lành mạnh, 10 thì xin mọi người trong quý vị và toàn dân I-sơ-ra-ên hãy biết rằng: ấy là nhờ danh của Ðức Chúa Jesus Christ người Na-xa-rét, Ðấng quý vị đã đóng đinh trên cây thập tự, Ðấng Ðức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ cõi chết, chính nhờ danh Ngài mà người này được mạnh khỏe và đang đứng trước mặt quý vị đây. 11 Ðức Chúa Jesus này là

‘Tảng đá đã bị quý vị, những thợ xây nhà, loại ra,
Nhưng Ngài đã trở thành tảng đá góc nhà.’Thi 118:22

12 Chẳng có ơn cứu rỗi trong đấng nào khác, vì chẳng có danh nào khác ban cho loài người ở dưới trời, hầu chúng ta phải nhờ danh đó để được cứu.”

13 Khi họ thấy sự bạo dạn của Phi-rơ và Giăng và nhận biết hai ông không phải là những người học thức khoa bảng mà chỉ là dân thường, họ lấy làm ngạc nhiên, và họ nhận ra rằng hai ông đã từng theo Ðức Chúa Jesus. 14 Ngoài ra họ cũng thấy người được chữa lành đang đứng đó với hai ông nên họ chẳng biết đáp lại thế nào. 15 Họ truyền cho những người ấy ra ngoài phòng họp của Hội Ðồng; họ bàn luận với nhau 16 rằng, “Chúng ta phải làm gì với những người này bây giờ? Vì quả thật mọi người sống ở Giê-ru-sa-lem đều biết rõ rằng hai người ấy đã làm một phép lạ rành rành; chúng ta không thể nào chối cãi. 17 Nhưng để việc này khỏi đồn rộng ra trong dân, chúng ta hãy cảnh cáo họ, không cho phép họ nói đến danh ấy với ai nữa.”

18 Sau khi đã gọi các ông vào, họ ra lịnh cấm các ông nhân danh Ðức Chúa Jesus để nói hay dạy cho ai. 19 Nhưng Phi-rơ và Giăng trả lời và nói với họ, “Không lẽ vâng lời quý vị thay vì Ðức Chúa Trời là đúng trước mặt Ðức Chúa Trời chăng? Xin quý vị hãy xét đi. 20 Vì chúng tôi không thể không nói những gì chúng tôi đã thấy và nghe.”

21 Sau khi họ đe dọa các ông thêm, họ thả các ông ra, vì họ chẳng tìm được cớ gì để phạt các ông, và cũng vì họ sợ dân, bởi mọi người đều tôn vinh Ðức Chúa Trời về việc đã xảy ra.

22 Vả, người đàn ông được phép lạ chữa lành đã ngoài bốn mươi tuổi.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang