Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Nê-hê-mi 7-9

Sau khi tường thành đã được tái thiết, và tôi đã cho tra các cánh cửa ở các cổng thành vào, các đội ngũ canh gác, ca hát, và những người Lê-vi cũng đã được phân nhiệm, tôi lập Ha-na-ni em tôi làm thị trưởng, và Ha-na-ni-a làm người chỉ huy các binh sĩ bảo vệ thành, vì ông ấy là một người trung thành và kính sợ Ðức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi truyền cho họ, “Ðừng mở các cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi ánh nắng mặt trời lên. Hễ những người canh gác ban đêm còn đứng canh, các cổng thành vẫn phải đóng và cài then. Hãy cắt đặt dân cư Giê-ru-sa-lem thay phiên nhau canh gác. Một số sẽ đứng gác ở các trạm canh, và một số khác sẽ đứng gác trước nhà mình.”

Sổ Bộ Những Người Hồi Cư

(Êxr 2:1-70)

Khi ấy thành thì rộng và lớn, nhưng dân trong thành lại ít và nhà cửa chưa được xây dựng lại. Ðức Chúa Trời của tôi giục lòng tôi để tôi mời các nhà quý tộc, các quan chức, và dân lại để họ ghi danh theo gia phả của họ. Tôi đã tìm được một sổ danh bạ những người hồi hương đợt đầu, trong đó có ghi như sau:

Ðây là những người ở các tỉnh từ chốn lưu đày trở về, những người trong số những người đã bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem đi lưu đày đã trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Những người cùng trở về với Xê-ru-ba-bên gồm có: Giê-sua, Nê-hê-mi-a, A-xa-ri-a, Ra-a-mi-a, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.

Ðây là con số những người I-sơ-ra-ên đã từ chốn lưu đày trở về:

Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người.

10 Con cháu của A-ra, sáu trăm năm mươi hai người.[a]

11 Con cháu của Pa-hát Mô-áp, qua dòng dõi của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười tám người.[b]

12 Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

13 Con cháu của Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người.[c]

14 Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.

15 Con cháu của Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người.

16 Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người.[d]

17 Con cháu của A-xơ-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người.[e]

18 Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người.[f]

19 Con cháu của Bích-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người.[g]

20 Con cháu của A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người.[h]

21 Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người.

22 Con cháu của Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người.

23 Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi bốn người.[i]

24 Con cháu của Ha-ríp, một trăm mười hai người.

25 Con cháu của Ghi-bê-ôn, chín mươi lăm người.

26 Dân Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người.

27 Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người.

28 Dân Bết A-ma-vết, bốn mươi hai người.

29 Dân Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.

30 Dân Ghê-ba và Ra-ma, sáu trăm hai mươi mốt người.

31 Dân Mích-mác, một trăm hai mươi hai người.

32 Dân Bê-tên và Ai, một trăm hai mươi ba người.[j]

33 Dân Nê-bô khác, năm mươi hai người.

34 Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

35 Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người.

36 Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.

37 Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người.[k]

38 Con cháu của Sê-nê-a, ba ngàn chín trăm ba mươi người.[l]

39 Các tư tế: Con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người.

40 Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người.

41 Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.

42 Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

43 Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

44 Những người ca hát: con cháu của A-sáp, một trăm bốn mươi tám người.[m]

45 Những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.[n]

46 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 47 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a,[o] con cháu của Pa-đôn, 48 con cháu của Lê-ba-na. con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Sanh-mai, 49 con cháu của Ha-na, con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, 50 con cháu của Rê-a-gia, con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, 51 con cháu của Ga-xam, con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, 52 con cháu của Bê-sai, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phu-sê-sim, 53 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cư-pha, con cháu của Hạc-hưa, 54 con cháu của Ba-xơ-lít, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 55 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 56 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha.

57 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Sô-phê-rết, con cháu của Pê-ri-đa,[p] 58 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 59 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.[q]

60 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

61 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hay liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên không thể định rõ họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không.

62 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm bốn mươi hai người.[r]

63 Về các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai –Ông ấy là người đã cưới một cô trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ và đã đổi họ để theo họ vợ– 64 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không thể tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ đã bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 65 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết.

66 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 67 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người là các tôi trai và tớ gái; trong vòng họ cũng có hai trăm bốn mươi lăm người,[s] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng.

68 Toàn dân có được bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 69 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

70 Một số các trưởng tộc đã đóng góp vào quỹ tái thiết. Tổng trấn đóng góp vào trong kho một ngàn miếng[t] vàng, năm mươi tô vàng, và năm trăm ba mươi bộ lễ phục cho các tư tế. 71 Các vị trưởng tộc đã đóng góp vào trong kho hai mươi ngàn miếng vàng và hai ngàn hai trăm thỏi[u] bạc. 72 Dân chúng còn lại đã đóng góp hai mươi ngàn miếng vàng, hai ngàn thỏi bạc, và sáu mươi bảy bộ lễ phục cho các tư tế.

73 Như vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người canh cửa, những người ca hát, những người phục vụ nơi Ðền Thờ, và một số người nữa, nói chung mọi người I-sơ-ra-ên đều được định cư trong các thành của họ. Ðến tháng thứ bảy dân I-sơ-ra-ên đã ổn định chỗ ở trong các thành của họ.

Ê-xơ-ra Tuyên Ðọc Luật Pháp và Cử Hành Lễ Lều Tạm

Khi ấy mọi người đều nhóm lại với nhau như một người tại quảng trường ở Cổng Nước. Họ nói với Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật, xin ông đem bộ Sách Luật Pháp của Môi-se mà Chúa đã truyền cho dân I-sơ-ra-ên đến. Vì thế ngày mồng một tháng bảy,[v] Tư Tế Ê-xơ-ra đem bộ sách đến trước hội chúng, gồm những người lớn nam và nữ và những thiếu niên có thể nghe và hiểu được, để đọc cho họ nghe từ sáng sớm cho đến giữa trưa. Ông đứng ở quảng trường đối diện với Cổng Nước và đọc lớn tiếng những lời đã chép trong đó trước mặt những người lớn nam và nữ, cùng những thiếu niên có thể hiểu được. Mọi người đều chăm chú lắng nghe Luật Pháp. Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật đứng trên một bục gỗ được đóng sẵn cho dịp này. Ðứng bên cạnh ông, bên phải có Mát-ti-thi-a, Sê-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Hinh-ki-a, và Ma-a-sê-gia; và bên trái có Pê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hách-ba-đa-na, Xa-cha-ri-a, và Mê-su-lam. Ê-xơ-ra mở sách ra trước mặt mọi người; vì ông đứng cao hơn mọi người, nên ai nấy đều nhìn thấy ông. Khi ông mở sách ra, mọi người đều đứng dậy. Ê-xơ-ra ca ngợi Chúa, Ðức Chúa Trời cao cả. Bấy giờ mọi người đều đưa hai tay lên trời và đáp lại, “A-men! A-men!” Kế đó họ cúi đầu và sấp mặt xuống đất mà thờ lạy Chúa.

Lúc ấy Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bi-a, Gia-min, Ạc-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-a, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ri-a, Giô-xa-bát, Ha-nan, Pê-la-gia, những người Lê-vi, đã giúp cho dân hiểu được luật pháp, trong khi dân vẫn cứ đứng yên tại chỗ. Họ đọc trong Sách Luật Pháp của Ðức Chúa Trời một cách rõ ràng và giải thích ý nghĩa những lời ấy, khiến ai nấy đều hiểu rõ những gì họ đọc.

Bấy giờ Nê-hê-mi tổng trấn, Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật kiêm tư tế, và những người Lê-vi giảng dạy cho dân. Họ nói với toàn dân, “Hôm nay là ngày thánh dành cho Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em. Ðừng than thở và khóc lóc.” Vì toàn dân đã bật khóc khi nghe những lời của Luật Pháp. 10 Sau đó Nê-hê-mi nói với họ, “Ai nấy hãy đi về, hãy ăn những món béo bổ, hãy uống những thức ngọt ngon, và hãy gởi phần cho những người không có gì để ăn uống, vì hôm nay là ngày thánh dành cho Chúa chúng ta. Ðừng buồn, vì niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh chị em.”

11 Những người Lê-vi cũng trấn an mọi người, bảo rằng, “Xin anh chị em hãy bình tĩnh, vì hôm nay là ngày thánh; đừng buồn.” 12 Thế là mọi người ra về, ăn, uống, và gởi phần ẩm thực. Họ rất đỗi vui mừng, vì hiểu được những lời đã công bố cho mình.

13 Ngày thứ nhì tất cả các trưởng tộc trong dân, cùng với các tư tế, và những người Lê-vi đã họp lại với Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật để học hỏi những lời của Luật Pháp tường tận hơn. 14 Họ tìm thấy trong Luật Pháp có ghi rằng Chúa truyền cho Môi-se bảo dân I-sơ-ra-ên phải ở trong các lều trong kỳ dự lễ tháng bảy, 15 và họ phải công bố và loan truyền trong tất cả các thành và trong Giê-ru-sa-lem rằng, “Hãy lên núi, đem những nhánh ô-liu, những nhánh thông, những cành sim, những cành kè, những cành cây rậm lá về làm lều để ở, y như đã chép.”

16 Thế là dân chúng đi ra, mang những nhánh cây ấy về, và làm lều để ở. Họ làm các lều lá ấy trên các sân thượng, trước sân nhà của họ, trong sân của nhà Ðức Chúa Trời, trong quảng trường ở Cổng Nước, và trong quảng trường ở Cổng Ép-ra-im. 17 Vậy cả tập thể những người từ chốn lưu đày trở về đã làm những lều lá và tạm trú trong các lều ấy suốt kỳ lễ. Số là từ ngày Giô-suê con của Nun cho đến ngày ấy, dân I-sơ-ra-ên chưa hề làm như thế bao giờ. Do đó mọi người đều vui mừng khôn xiết.

18 Ngày nào cũng vậy, từ ngày đầu cho đến ngày cuối của kỳ lễ, Ê-xơ-ra đọc trong Sách Luật Pháp của Ðức Chúa Trời. Họ cử hành lễ suốt bảy ngày; đến ngày thứ tám, họ cử hành một lễ bế mạc rất trọng thể, y như đã quy định.

Lễ Thờ Phượng Sám Hối

Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ.

Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. Kế đó những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.”

Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là Chúa, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài.

Ngài là Chúa, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hi-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính.

Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10 Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11 Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12 Ngoài ra Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua.

13 Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14 Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Môi-se tôi tớ Ngài. 15 Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ.

16 Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17 Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18 ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề.

19 Dù vậy do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên hành trình họ phải đi qua vẫn không rời khỏi họ. 20 Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh ma-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21 Thật vậy trong bốn mươi năm Ngài đã duy trì mạng sống họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo họ không mòn, đôi chân họ không phù.

22 Hơn thế nữa Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua Ba-san. 23 Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24 Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý họ. 25 Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho.

26 Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27 Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù.

28 Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài.

29 Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30 Dù vậy Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Bởi Ðức Thánh Linh Ngài, Ngài đã cảnh cáo họ về tội lỗi họ qua các vị tiên tri Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31 Tuy nhiên do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót.

32 Vậy bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33 Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34 Không có vua nào, quan nào, tư tế nào, hay tổ tiên nào của chúng con vâng giữ luật pháp Ngài hoặc làm theo các điều răn Ngài hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35 Ngược lại khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36 Cho nên giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con để họ và con cháu họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37 Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước này đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.”

Danh Sách Những Người Ký Giao Ước

38 Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế.

Công Vụ Các Sứ đồ 3

Người Què Ðược Chữa Lành

Một ngày kia Phi-rơ và Giăng đi lên đền thờ vào giờ cầu nguyện lúc ba giờ chiều.[a] Khi ấy có một người què từ trong lòng mẹ đã được khiêng đến đó. Số là hằng ngày ông được người ta khiêng để bên cổng đền thờ tên là Cổng Ðẹp để xin những người đi vào đền thờ bố thí. Khi ông thấy Phi-rơ và Giăng sắp vào đền thờ, ông xin họ bố thí. Phi-rơ và Giăng nhìn chăm chăm ông và nói, “Hãy nhìn chúng tôi!”

Vậy ông nhìn chăm chăm họ, hy vọng sẽ nhận được gì. Nhưng Phi-rơ nói, “Bạc và vàng tôi không có, nhưng điều tôi có, tôi cho ông: Nhân danh Ðức Chúa Jesus Christ ở Na-xa-rét hãy đứng dậy và bước đi.”

Ðoạn Phi-rơ nắm lấy tay phải ông và đỡ ông dậy; ngay lập tức hai bàn chân và các mắt cá của ông được vững mạnh. Ông nhảy lên, đứng thẳng dậy, và bước đi. Ông đi vào đền thờ với họ, vừa đi, vừa nhảy, vừa ca ngợi Ðức Chúa Trời.

Mọi người thấy ông vừa đi vừa ca ngợi Ðức Chúa Trời; 10 họ nhận ra ông là người què vốn ngồi xin bố thí tại Cổng Ðẹp của đền thờ, họ rất kinh ngạc và lấy làm lạ về những gì đã xảy đến cho ông.

11 Trong khi ông bám theo Phi-rơ và Giăng, mọi người đều quá đỗi kinh ngạc và kéo nhau chạy theo họ đến một nơi gọi là Hành Lang Sa-lô-môn.

Phi-rơ Giảng tại Ðền Thờ

12 Khi Phi-rơ thấy thế, ông nói với dân, “Thưa anh chị em người I-sơ-ra-ên, tại sao anh chị em kinh ngạc về việc này? Hay tại sao anh chị em nhìn chầm chập vào chúng tôi như thể tự chúng tôi có quyền phép hoặc đạo hạnh gì có thể làm cho người này bước đi vậy? 13 Ấy là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của I-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, Ðức Chúa Trời của các tổ phụ chúng ta đã làm vinh hiển đầy tớ Ngài là Ðức Chúa Jesus, Ðấng anh chị em đã trao nộp và khước từ trước mặt Phi-lát, dù ông ấy đã quyết định phóng thích Ngài. 14 Anh chị em đã khước từ Ðấng Thánh và Ðấng Công Chính mà xin ân xá một kẻ sát nhân cho mình. 15 Anh chị em đã giết Ðấng Ban Sự Sống, Ðấng Ðức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ cõi chết; về việc này, chúng tôi là các nhân chứng. 16 Bởi đức tin trong danh Ngài là danh đã làm cho người này, người anh chị em đã thấy và biết, được vững mạnh, và bởi đức tin nơi Ngài mà người này đã được ban cho mạnh khỏe hoàn toàn ngay trước mắt anh chị em.

17 Vậy bây giờ, thưa anh chị em, tôi biết anh chị em đã hành động trong lúc chưa hiểu biết, cũng như những người lãnh đạo của anh chị em. 18 Nhưng nhờ thế Ðức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán qua miệng tất cả các vị tiên tri rằng Ðấng Christ do Ngài sai đến phải chịu đau khổ. 19 Vậy anh chị em hãy ăn năn, hãy trở về với Ðức Chúa Trời để tội lỗi của anh chị em được xóa đi, 20 hầu thời kỳ tươi mới có thể đến từ trước mặt Chúa, và để Ngài có thể sai Ðấng Christ, Ðấng đã được chỉ định từ trước, chính là Ðức Chúa Jesus, đến với anh chị em. 21 Ngài là Ðấng thiên đàng phải rước về cho đến thời kỳ làm mới lại[b] muôn vật, tức thời kỳ Ðức Chúa Trời đã cậy miệng các vị tiên tri thánh của Ngài nói trước từ lâu. 22 Thật vậy Môi-se đã nói,

‘Chúa Ðức Chúa Trời của anh chị em sẽ dấy lên từ giữa anh chị em một đấng tiên tri như tôi cho anh chị em. Anh chị em phải nghe theo mọi điều đấng ấy dạy bảo.Phục 18:15-16 23 Ai không nghe theo đấng tiên tri ấy sẽ bị truất[c] khỏi dân.’Phục 18:19 và Lê 23:29

24 Sau đó tất cả các đấng tiên tri, từ Sa-mu-ên cho đến những vị kế tiếp ông, hễ ai nói tiên tri đều cũng loan báo về những ngày ấy. 25 Anh chị em là con cháu của các đấng tiên tri và của giao ước Ðức Chúa Trời đã lập với tổ tiên của anh chị em, khi Ngài phán với Áp-ra-ham,

‘Từ dòng dõi ngươi tất cả các dân trên đất sẽ được phước.’Sáng 22:18; 26:4

26 Khi Ðức Chúa Trời dấy lên Ðầy Tớ của Ngài, Ngài đã sai Ðầy Tớ ấy đến với anh chị em trước hết, để ban phước cho anh chị em bằng cách làm mỗi người trong anh chị em lìa bỏ những xấu xa tội lỗi của mình.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang