Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
II Các Vua 17-18

Hô-sê-a Trị Vì I-sơ-ra-ên

(2 Sử 18:9-12)

17 Năm thứ mười hai của triều đại A-kha vua Giu-đa, Hô-sê-a con của Ê-la lên ngôi làm vua I-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Ông trị vì chín năm. Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, nhưng không như các vua I-sơ-ra-ên trước ông. Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri kéo đến đánh ông. Hô-sê-a trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. Nhưng vua A-sy-ri thấy Hô-sê-a có ý làm phản, vì ông đã sai sứ giả đến cầu xin Sô vua Ai-cập đến giúp đỡ. Ngoài ra ông cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-sy-ri như thường làm nữa. Vì thế vua A-sy-ri đến bắt ông và giam ông vào ngục.

Dân I-sơ-ra-ên Bị Lưu Ðày

Bấy giờ vua A-sy-ri xâm lăng xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. Năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a, vua A-sy-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân I-sơ-ra-ên đem về A-sy-ri. Ông cho họ định cư tại Ha-la, bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi.

Việc ấy xảy ra vì dân I-sơ-ra-ên đã phạm tội đối với Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, Ðấng đã đem họ ra khỏi đất Ai-cập, tức khỏi tay của Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng các thần khác, sống theo các tập tục của những dân Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên, và làm theo các thói tục do các vua I-sơ-ra-ên bày ra.

Dân I-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những tháp canh cho đến những thành trì kiên cố. 10 Họ dựng cho họ những trụ thờ bằng đá và những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. 11 Họ thiêu dâng các lễ vật trên các tế đàn ở những nơi cao, giống như các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi chọc giận Chúa. 12 Họ thờ các thần tượng mà Chúa đã bảo, “Các ngươi chớ thờ chúng.” 13 Tuy Chúa đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo I-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng, “Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lịnh của Ta, tức toàn bộ luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ tiên các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi.” 14 Nhưng họ không nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ tiên của họ đã làm, đó là những người đã không tin vào Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. 15 Họ coi thường các mạng lịnh của Ngài và các giao ước Ngài đã lập với tổ tiên họ. Họ cũng coi thường những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả của Ngài đến cảnh cáo họ. Họ cứ đi theo các thần tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc chung quanh họ, tức các dân tộc mà Chúa đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy. 16 Họ loại bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, mà đúc cho họ tượng hai con bò con và dựng những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra lên để thờ lạy. Họ thờ phượng các thiên binh trên trời và thờ lạy Thần Ba-anh. 17 Họ thiêu sống con trai và con gái của họ trong lửa để dâng cho các thần tượng. Họ tin theo các phù thủy và các thầy bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt Chúa và chọc giận Ngài. 18 Vì thế Chúa rất giận dân I-sơ-ra-ên, và Ngài đã cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.

19 Nhưng người Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng đi theo các thói tục người I-sơ-ra-ên đã bày ra. 20 Vì thế Chúa đã từ bỏ toàn thể con cháu của I-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt họ cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi thánh nhan Ngài.

21 Khi Ngài xé rách dân I-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Ða-vít, họ lập Giê-rô-bô-am con của Nê-bát lên làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo dân I-sơ-ra-ên xa cách Chúa và đã xúi họ phạm tội trọng. 22 Dân I-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã gây ra. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy 23 cho đến khi Chúa cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các vị tiên tri, tức các tôi tớ Ngài. Vì thế I-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở của họ, phải đến sống ở A-sy-ri cho đến ngày nay.

Dân Ngoại Ðịnh Cư tại Sa-ma-ri

24 Vua A-sy-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-thác, A-va, Ha-mát, và Sê-phạc-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri, thế chỗ của dân I-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. 25 Khi mới đến định cư tại đó, họ không thờ phượng Chúa, nên Chúa đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. 26 Người ta tâu với vua A-sy-ri rằng, “Các dân tộc mà ngài đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết cách thức thờ phượng vị thần của xứ ấy. Vì thế vị thần của xứ ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ, bởi họ không biết cách thức thờ phượng vị thần ấy như thế nào.”

27 Vua A-sy-ri bèn truyền lịnh, “Các ngươi hãy chọn một người trong số những tư tế đã bị bắt đem lưu đày. Hãy đưa người ấy trở về xứ để sống tại đó, hầu người ấy sẽ dạy chúng biết cách thờ phượng vị thần của xứ ấy.” 28 Vậy một tư tế trong số những tư tế bị bắt đem lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và sống tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng Chúa như thể nào.

29 Tuy nhiên mỗi dân tộc đều làm những tượng thần riêng của họ, đem đặt những tượng thần ấy vào các khám thờ, rồi mang vào để trong các đền miếu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập những vị thần riêng cho mình trong các thành họ ở. 30 Dân Ba-by-lôn dựng tượng Thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút lập tượng Thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát lập tượng Thần A-si-ma, 31 dân A-vi lập tượng Thần Níp-ha và Tạt-tắc, dân Sê-phạc-va-im thiêu con thơ của họ trong lửa cho Thần Át-ram-mê-léc và Thần A-nam-mê-léc, các thần của dân Sê-phạc-va-im. 32 Các dân tộc ấy cũng thờ phượng Chúa và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm các tư tế cho các đền miếu ở những nơi cao. Các tư tế ấy thay mặt họ dâng các con vật hiến tế trên các tế đàn ở những nơi cao. 33 Như vậy các dân tộc ấy vừa thờ phượng Chúa nhưng cũng thờ phượng các thần của họ. Họ cứ giữ các phong tục mà dân tộc họ đã có trước khi bị lưu đày. 34 Họ vẫn tiếp tục giữ các phong tục ngày trước của họ cho đến ngày nay. Họ không kính sợ Chúa và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, hay điều răn mà Chúa đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, người Ngài đã đặt tên là I-sơ-ra-ên. 35 Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên và truyền cho họ rằng, “Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác, chớ thờ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng các con vật hiến tế cho chúng. 36 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðấng đã đưa cánh tay quyền năng của Ngài ra, đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ thờ lạy một mình Ngài và chỉ dâng các con vật hiến tế lên Ngài. 37 Những quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, các ngươi phải cẩn thận vâng giữ. Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác. 38 Các ngươi chớ quên giao ước Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi chớ thờ lạy các thần khác. 39 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi.”

40 Các dân tộc mới đến cũng không nghe theo. Họ vẫn cứ tiếp tục thờ phượng các thần riêng của họ theo phong tục trước kia của họ. 41 Vậy các dân tộc đó vừa thờ phượng Chúa và cũng vừa thờ phượng các thần do họ chạm khắc hoặc đúc nên. Sau đó con cháu họ và con cháu của con cháu họ cứ tiếp tục theo truyền thống của tổ tiên họ mà làm như thế cho đến ngày nay.

Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 29:1-2; 31:1, 20-21; 2Vua 17:3-7)

18 Năm thứ ba của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con của A-kha vua Giu-đa bắt đầu trị vì. Ông được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi con gái của Xê-ca-ri-a. Ông làm điều tốt trước mặt Chúa giống như Ða-vít tổ tiên ông đã làm. Ông dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đập nát con rắn bằng đồng Môi-se đã làm, vì cho đến lúc đó dân I-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hút-tan. Ông tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua Giu-đa sau ông, không ai được như thế, và trong số các vị vua trước ông, cũng chẳng ai được như vậy, vì ông bám chặt lấy Chúa. Ông chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà Chúa đã truyền cho Môi-se. Chúa ở với ông, nên ông làm gì cũng được thành công. Ông nổi lên chống lại vua A-sy-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. Ông tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.

Năm thứ tư của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a vua I-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-sy-ri bắt dân I-sơ-ra-ên đem đi lưu đày ở A-sy-ri. Ông cho họ định cư bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi, 12 bởi vì họ không vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức tất cả những điều Môi-se tôi tớ Chúa đã truyền. Họ không nghe theo và cũng chẳng thi hành những điều ấy.

Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa

(2 Sử 32:9-19; Ê-sai 36:1-12)

13 Năm thứ mười bốn của triều đại Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy chúng. 14 Ê-xê-chia vua Giu-đa sai sứ giả đến gặp vua A-sy-ri tại La-kích và tâu rằng, “Tôi có lỗi. Xin ngài lui binh. Ngài muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua A-sy-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa phải nộp mười ngàn hai trăm ký bạc và một ngàn hai mươi ký vàng.[a] 15 Vì thế Ê-xê-chia phải lấy tất cả bạc trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho tàng của hoàng cung nộp cho vua ấy. 16 Bấy giờ Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của Ðền Thờ Chúa, tức vàng mà Ê-xê-chia vua Giu-đa đã cẩn trên những cánh cửa ấy, để đem nộp cho vua A-sy-ri.

17 Dầu vậy vua A-sy-ri vẫn sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[b] cùng một đạo binh rất lớn từ La-kích đến đánh Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và hãm áp Giê-ru-sa-lem. Khi đến gần thành, họ tiến vào, rồi dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của Thượng Hồ, nơi con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện, 18 và yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố đi ra gặp họ.

19 Ráp-sa-kê nói với họ, “Hãy về và bảo Ê-xê-chia: Ðại đế của ta là vua A-sy-ri đã phán như thế nầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh, lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng? Ðó chỉ là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn vua Ai-cập sẽ bị như vậy. 22 Còn nếu ngươi bảo ta rằng, ‘Chúng tôi tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở trước bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-sy-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa há chẳng phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa đã bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ đó và tiêu diệt nó đi.”

26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a, Sép-na, và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng, “Xin ngài nói với các tôi tớ ngài bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”

27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ, “Há chủ ta đã sai ta đến chỉ để nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi, nữa sao?”

28 Ðoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời đại đế của ta là vua A-sy-ri. 29 Vua của ta phán như thế nầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy vào Chúa mà rằng, ‘Chúa chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-sy-ri.’ 31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri phán thế nầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả của mình và sẽ được uống nước giếng của mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi hắn nói rằng, ‘Chúa sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ sở của họ khỏi tay vua A-sy-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạc-pát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạc-va-im, dân Hê-na, và dân I-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu được nước của họ khỏi tay ta chăng? Thế thì Chúa há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được sao?”

36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua đã truyền rằng, “Ðừng trả lời hắn.” 37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan bí thư, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố xé rách áo họ, rồi vào thành gặp vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.

Giăng 3:19-36

19 Bản án đó là thế này: ánh sáng đã vào thế gian, nhưng người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ là gian tà. 20 Phàm ai hành động gian tà đều ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng, vì sợ các việc làm của mình bị lộ ra. 21 Nhưng ai làm điều chân thật thì đến với ánh sáng, để các việc làm của mình có thể được tỏ ra, vì đã được thực hiện trong Ðức Chúa Trời.”

Giăng Báp-tít Làm Chứng về Chúa

22 Sau những việc ấy Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đến miền Giu-đê. Ngài và các môn đồ Ngài ở lại đó và làm báp-têm. 23 Khi ấy Giăng cũng đang làm báp-têm tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì chỗ đó có nhiều nước, và người ta kéo đến để được báp-têm. 24 Lúc ấy Giăng chưa bị tù.

25 Bấy giờ có cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đồ của Giăng với người Do-thái về lễ thanh tẩy. 26 Sau đó họ đến với Giăng và nói với ông, “Thưa thầy, Người đã ở với thầy bên kia Sông Giô-đanh, Người mà thầy đã làm chứng cho, kìa, Người ấy đang làm báp-têm, và mọi người đều đến với Người ấy.”

27 Giăng trả lời và nói, “Nếu chẳng từ trời ban cho, không ai nhận được gì. 28 Chính anh em làm chứng cho tôi rằng tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Christ, nhưng tôi chỉ là người được sai đến trước Ngài. 29 Ai có cô dâu mới là chàng rể. Bạn của chàng rể chỉ đứng, nghe chàng rể nói, và rất đỗi vui mừng khi nghe tiếng chàng rể. Ðó là niềm vui của tôi và bây giờ đã được trọn. 30 Ngài phải được tôn lên, còn tôi phải hạ xuống.”

31 Ðấng đến từ trên thì trên tất cả. Người ra từ đất là thuộc về đất, và nói những việc thuộc về đất. Ðấng đến từ trời thì trên tất cả. 32 Ngài làm chứng về những gì Ngài đã thấy và nghe; tiếc rằng không ai tin nhận lời chứng của Ngài. 33 Người nào tin nhận lời chứng của Ngài đều xác nhận rằng Ðức Chúa Trời là thật. 34 Ðấng Ðức Chúa Trời sai đến rao báo sứ điệp của Ðức Chúa Trời, vì Ðức Chúa Trời ban Ðức Thánh Linh vô hạn. 35 Ðức Chúa Cha thương Ðức Chúa Con và đã giao mọi sự trong tay Ðức Chúa Con. 36 Ai tin Ðức Chúa Con thì có sự sống đời đời; ai không chịu tin Ðức Chúa Con sẽ chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang