Old/New Testament
Rước Rương Giao Ước vào Ðền Thờ
(2 Sử 5:2-6:2)
8 Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của I-sơ-ra-ên, tất cả các vị trưởng chi tộc và các trưởng gia tộc trong I-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của Chúa từ Thành Ða-vít ở Si-ôn đến Ðền Thờ. 2 Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân I-sơ-ra-ên tụ họp quanh Vua Sa-lô-môn để dự lễ. 3 Khi tất cả các trưởng lão đến, các tư tế khiêng Rương ra đi. 4 Vậy các tư tế và những người Lê-vi khiêng Rương của Chúa, Ðền Tạm tức Lều Hội Kiến, và tất cả các vật dụng thánh trong Ðền Tạm đem đi.
5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, tức những người đã tụ họp trước mặt vua, hiệp với ông đến trước Rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến nỗi không thể đếm được. 6 Kế đó các tư tế thỉnh Rương Giao Ước của Chúa, đặt vào vị trí ở phòng trong cùng của Ðền Thờ, tức Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. 7 Các chê-ru-bim dang cánh ra trên Rương; các chê-ru-bim che trên Rương và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng ấy khá dài đến nỗi lòi các đầu ra, khiến ai đứng ở trước Nơi Chí Thánh đều có thể trông thấy, nhưng ai đứng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong Rương không có gì ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, nơi Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.
10 Khi các tư tế vừa ra khỏi Nơi Thánh, mây mù kéo đến bao phủ Ðền Thờ CHÚA 11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.
12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán, ‘Ngài ngự giữa mây đen,’ 13 và con rất được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ nguy nga tráng lệ để làm một nơi Ngài ngự đời đời.”
Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân
(2 Sử 6:3-11)
14 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 16 ‘Từ ngày Ta đem dân I-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó,[a] nhưng Ta đã chọn Ða-vít để lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’
17 Lúc ấy Ða-vít cha tôi đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 18 nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 19 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’
20 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên thế vào chỗ của Ða-vít cha tôi, và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán; và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 21 Ðây nầy, tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước của Chúa, mà Ngài đã lập với tổ tiên chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”
Sa-lô-môn Cung Hiến Ðền Thờ
(2 Sử 6:12-42)
22 Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, đưa hai tay lên trời, 23 và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 25 Vậy bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị, để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối của chúng mà bước đi trước mặt Ta, như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 26 Vì vậy, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên ôi, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con.
27 Nhưng Ðức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài, huống chi là ngôi đền con xây cho Ngài đây. 28 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. 29 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ nầy, nơi Ngài đã phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 30 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
31 Khi có ai phạm tội đối với người khác và bị người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ nầy, 32 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Nguyện Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.
33 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài, rồi bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 34 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ.
35 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, và lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 36 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài; cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi và ban mưa xuống xứ sở Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 38 mà có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ mà đưa tay ra hướng về Ðền Thờ nầy cầu nguyện và nài xin, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 40 hầu họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời của họ mà sống trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.
41 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe đến uy danh Ngài – 42 vì người ta sẽ nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra– khi người đó đến và hướng về ngôi đền nầy cầu nguyện, 43 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi lời cầu nguyện của người ngoại quốc đó cầu xin Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.
44 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù, dù lúc đó họ ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi dân Ngài hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài, mà cầu nguyện với Chúa, 45 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ.
46 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem lưu đày trong xứ của quân thù, bất kể xa hay gần, 47 nhưng nếu đang khi ở trong xứ bị lưu đày, họ tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 48 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn trở về với Ngài trong xứ của quân thù, những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, và hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 49 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ, 50 xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài, và tha mọi vi phạm họ đã phạm đối với Ngài, và xin Ngài cho họ được thương xót trước mặt những kẻ bắt họ đem đi lưu đày để chúng thương xót họ, 51 vì họ là dân Ngài và là cơ nghiệp của Ngài, những người Ngài đã đem ra khỏi Ai-cập, ra khỏi lò nung chảy sắt.
52 Cầu xin mắt Ngài đoái đến lời cầu xin của tôi tớ Ngài và lời cầu xin của dân I-sơ-ra-ên của Ngài mà đoái nghe họ mỗi khi họ kêu cầu Ngài, 53 vì Ngài đã tách họ ra khỏi mọi dân trên đất, để họ làm cơ nghiệp của Ngài, như Ngài đã phán với Môi-se tôi tớ Ngài khi Ngài đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy Chúa Hằng Hữu.”[b]
Sa-lô-môn Chúc Phước cho Dân
54 Khi Sa-lô-môn đã dâng mọi lời cầu nguyện ấy và những lời cầu xin ấy lên Chúa xong, ông đứng dậy trước bàn thờ Chúa, nơi ông đã quỳ và đưa hai tay lên trời. 55 Ông đứng dậy và lớn tiếng chúc phước toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên rằng:
56 “Chúc tụng Chúa, Ðấng ban cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài được nghỉ ngơi như mọi lời Ngài đã phán. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp Ngài đã cậy Môi-se tôi tớ Ngài nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. 57 Nguyện xin Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ tiên chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. 58 Nguyện lòng chúng ta luôn luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, và vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ tiên chúng ta. 59 Nguyện những lời của tôi đã cầu nguyện trước mặt Chúa luôn ở bên cạnh Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân I-sơ-ra-ên của Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60 để mọi dân trên đất biết rằng Chúa là Ðức Chúa Trời và không có thần nào khác. 61 Vậy các ngươi khá hết lòng tận trung với Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài, y như đã làm ngày nay.”
Tế Lễ Cung Hiến Ðền Thờ
(2 Sử 7:4-10)
62 Sau đó vua và toàn dân I-sơ-ra-ên đang họp lại với ông dâng các con vật hiến tế lên trước mặt Chúa. 63 Sa-lô-môn dâng lên Chúa hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên làm của lễ tạ ơn.[c] Vậy vua và toàn dân I-sơ-ra-ên cung hiến Ðền Thờ lên Chúa.
64 Ngày hôm đó vua biệt riêng khu vực ở giữa sân, trước Ðền Thờ Chúa, làm nơi dâng các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt Chúa quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn. 65 Vậy lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân I-sơ-ra-ên có mặt với ông đều vui mừng cử hành thánh lễ trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, bảy ngày.[d] Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ Ải Ha-mát cho đến Suối Ai-cập. 66 Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân ra về. Họ chúc phước cho ông, rồi ai nấy trở về trại mình với tinh thần vui mừng phấn khởi vì mọi điều tốt đẹp mà Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Ngài và cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài.
Chúa Hiện Ra với Sa-lô-môn - Lần Thứ Nhì
(2 Sử 7:11-22)
9 Sau khi Sa-lô-môn đã xây dựng Ðền Thờ Chúa, hoàng cung, và những dinh thự ông muốn xây cất, 2 Chúa hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với ông tại Ghi-bê-ôn. 3 Chúa phán với ông, “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh Ðền Thờ mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ ở đó luôn luôn. 4 Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Ða-vít cha ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, và vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, 5 thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi vững vàng trên I-sơ-ra-ên mãi mãi, như Ta đã hứa với Ða-vít cha ngươi rằng, ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngai của I-sơ-ra-ên.’
6 Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay đi mà lìa bỏ Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng phục vụ và thờ phượng các thần khác, 7 thì Ta sẽ dứt bỏ I-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ta đã ban cho chúng; Ta sẽ bỏ Ðền Thờ mà Ta đã biệt riêng ra thánh cho danh Ta, và dân I-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và đầu đề bị chế giễu giữa các dân. 8 Ðền Thờ nầy sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn. Những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng, ‘Tại sao Chúa đã làm điều ấy cho xứ nầy và cho dân nầy như thế?’ 9 Rồi người ta sẽ đáp rằng, ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, Ðấng đã đem tổ tiên họ ra khỏi xứ Ai-cập, nhưng bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên Chúa đã khiến tai vạ nầy xảy đến trên họ đó.’”
10 Cuối hai năm, thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức Ðền Thờ cho Chúa và hoàng cung, 11 vì Vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tùy ý ông muốn, nên Vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. 12 Nhưng khi Hi-ram từ Ty-rơ đến để quan sát các thành Sa-lô-môn đã cho ông thì ông ấy chẳng hài lòng. 13 Hi-ram nói, “Những thành mà anh cho tôi là những thành gì vậy anh?” Rồi ông gọi xứ đó là Ca-bun[e] cho đến ngày nay. 14 Dù vậy Hi-ram cũng gởi cho ông bốn ngàn tám mươi ký vàng.[f]
Các Hoạt Ðộng Khác của Sa-lô-môn
(2 Sử 8:3-11)
15 Sau đây là bản liệt kê các công trình xây dựng mà Vua Sa-lô-môn đã áp dụng chính sách cưỡng bách lao động để xây cất: Ðền Thờ Chúa, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Ha-xơ, Mê-ghi-đô, Ghê-xe 16 (Số là Pha-ra-ôn vua Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái ông để làm vợ Sa-lô-môn. 17 Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại Ghê-xe), Bết Hô-rôn Hạ, 18 Ba-a-lát, và Tác-mô trong đồng hoang thuộc lãnh thổ của ông, 19 tất cả các thành làm kho dự trữ, các thành cho các đạo quân có các xe chiến mã, các thành cho các đạo kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng, và ở mọi xứ trong vương quốc của ông. 20 Tất cả những người còn lại của các dân Hít-ti, A-mô-ri, Pê-ri-xi, Hi-vi, và Giê-bu-si sống trong xứ, những người không phải dân I-sơ-ra-ên 21 – chúng là con cháu của những người mà dân I-sơ-ra-ên đã không thể tận diệt và hiện còn sống sót trong xứ– Sa-lô-môn bắt chúng phải đóng thuế nặng dưới hình thức cưỡng bách lao động như đã thấy ngày nay. 22 Nhưng Sa-lô-môn không bắt người I-sơ-ra-ên nào làm nô lệ, nhưng họ là các chiến sĩ, quan lại, tướng tá, đơn vị trưởng, và sĩ quan chỉ huy các đơn vị điều động các xe chiến mã và các đơn vị kỵ binh của ông.
23 Ðây là con số các quan chức Sa-lô-môn đã lập lên để chỉ huy những người thực hiện các công trình xây cất của ông: năm trăm năm mươi người. Họ cai quản những người làm việc.
24 Sau khi con gái của Pha-ra-ôn từ Thành Ða-vít dọn lên ở trong cung điện Sa-lô-môn đã xây cho nàng, ông khởi công xây dựng các công sự phòng thủ.
25 Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng của lễ thiêu và của lễ cầu an trên bàn thờ ông đã xây cho Chúa. Ông cũng dâng hương lên trước mặt Chúa. Như vậy ông đã hoàn tất công trình xây cất Ðền Thờ.
Các Hoạt Ðộng Thương Mại của Sa-lô-môn
(2 Sử 8:17-18)
26 Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lát, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram sai các tôi tớ của ông, những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi với đoàn tàu, tức đi với các tôi tớ của Sa-lô-môn. 28 Họ đến Ô-phia và đem về hơn mười bốn tấn[g] vàng, rồi đem nộp tất cả cho Vua Sa-lô-môn.
Bà Góa Dâng Hiến
(Mác 12:41-44)
21 Ngài nhìn lên và thấy những người giàu bỏ tiền dâng hiến vào thùng tiền dâng. 2 Ngài cũng thấy một bà góa nghèo bỏ vào đó hai đồng xu.[a] 3 Ngài nói, “Quả thật, Ta nói với các ngươi, bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền dâng nhiều hơn những người khác, 4 vì mọi người khác đã dâng bằng tiền dư của họ, còn bà này đã lấy tất cả số tiền bà cần để nuôi mình mà bỏ vào; đó là tất cả tiền bà có để nuôi mình.”
Chúa Báo Trước về Ðền Thờ Bị Hủy Phá
(Mat 24:1-2; Mác 13:1-2)
5 Trong khi mấy người trầm trồ ca tụng về đền thờ, thể nào đền thờ đã được xây bằng những khối đá đẹp đẽ và những bửu vật người ta dâng trang trí trong đền thờ, Ngài phán, 6 “Những gì các ngươi đang thấy rồi đây sẽ không còn khối đá nào chồng trên khối đá nào; tất cả sẽ bị đổ xuống.”
Ðiềm Báo Trước Ngày Tận Thế
(Mat 24:3-14; Mác 13:3-13)
7 Họ hỏi Ngài rằng, “Thưa Thầy, khi nào việc ấy sẽ xảy ra? Có điềm gì báo trước việc ấy sẽ xảy đến không?”
8 Ngài đáp, “Hãy coi chừng, đừng để ai gạt các ngươi, vì nhiều kẻ sẽ mạo danh Ta đến và nói rằng, ‘Ta là Ðấng Christ!’ [b] và ‘Ngày tận thế đã gần!’ Chớ nghe theo chúng. 9 Khi các ngươi nghe tin tức về chiến tranh và loạn lạc, đừng sợ, vì những việc ấy phải xảy ra trước, nhưng ngày tận thế không đến liền đâu.”
10 Ðoạn Ngài nói với họ, “Dân này sẽ nổi lên nghịch với dân khác, nước nọ sẽ chống lại nước kia. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có nạn đói và ôn dịch; sẽ có những hiện tượng khủng khiếp và những điềm lớn lạ trên không trung. 12 Nhưng trước khi những điều ấy xảy đến, người ta sẽ bắt bớ và bách hại các ngươi. Họ sẽ bắt nộp các ngươi cho các hội đường và bỏ các ngươi vào tù. Các ngươi sẽ bị điệu đến trước mặt các vua chúa và các quan quyền vì danh Ta. 13 Ðó sẽ thành những cơ hội cho các ngươi làm chứng. [c] 14 Vậy hãy định trí điều này: đừng nghĩ trước phải bào chữa cách nào, 15 vì chính Ta sẽ cho các ngươi những lời lẽ[d] và sự khôn ngoan, khiến tất cả những kẻ chống nghịch các ngươi không thể chống trả hay phản bác. 16 Các ngươi sẽ bị cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè bắt nộp, và người ta sẽ giết một số người trong các ngươi. 17 Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, 18 nhưng không một sợi tóc nào trên đầu các ngươi sẽ bị mất. 19 Nhờ kiên trì chịu đựng các ngươi sẽ được linh hồn[e] mình.”
Copyright © 2011 by Bau Dang