Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Giê-rê-mi 48-49

Án Phạt Dân Mô-áp

48 Về Mô-áp, Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán thế này:

“Hỡi ôi Nê-bô, vì nó bị tàn phá mất rồi!
Ki-ri-a-tha-im phải chuốc lấy hổ thẹn, vì nó bị chiếm đóng;
Thành kiên cố phải mang lấy hổ nhục và bị phá hủy.
Niềm kiêu hãnh của Mô-áp không còn nữa.
Ở Hếch-bôn, người ta bàn mưu chống lại nó,
‘Hãy đến, chúng ta hãy tiêu diệt nó, để nó không còn là một quốc gia nữa.’
Còn ngươi, hỡi Mát-mên, ngươi sẽ bị tiêu diệt;
Gươm giáo sẽ đuổi theo ngươi.
Ở Hô-rô-na-im, người ta nghe tiếng khóc la,
‘Tàn phá và đại diệt vong!’
‘Mô-áp bị tiêu diệt mất rồi!’
Các trẻ con trong nước của nàng kêu la như vậy.
Trên đường lên Ðèo Lu-hít, họ vừa đi vừa khóc thút thít;
Trên đường xuống Dốc Hô-rô-na-im, họ nghe quân thù réo nhau bảo tìm giết đến cùng.
Hãy chạy trốn!
Hãy cứu lấy mạng mình!
Hãy làm như con lừa rừng trốn tránh trong đồng hoang!

Số là ngươi đã cậy vào thành quả của ngươi và của cải ngươi,
Cho nên ngươi đáng bị quân thù chiếm đoạt;
Thần Kê-mốt sẽ bị bắt đem đi lưu đày,
Luôn với các tư tế của nó và những kẻ lãnh đạo của nó.
Kẻ hủy diệt sẽ đến từng thành nó,
Và không thành nào thoát khỏi.
Thung lũng sẽ bị tàn phá,
Ðồng bằng sẽ bị hủy hoại,
Y như Chúa đã phán.
Hãy chắp cánh cho Mô-áp, để nó cao bay xa chạy;[a]
Các thành của nó sẽ trở nên hoang vắng điêu tàn,
Không người nào còn ở trong các nơi đó nữa.
10 Ðáng nguyền rủa thay cho kẻ làm công việc Chúa cách qua loa chiếu lệ.
Ðáng nguyền rủa thay cho kẻ giữ gươm của nó lại mà không để cho nhuốm máu!
11 Từ thuở niên thiếu Mô-áp luôn được sống an lành;
Ðược ổn định như rượu mà cặn đã lắng xuống,
Không bị rót từ vò này sang vò khác;
Nó chưa hề bị lưu đày,
Cho nên vị của nó còn nguyên,
Mùi của nó vẫn không thay đổi.
12 Vì vậy,” Chúa phán, “chắc chắn sẽ có ngày Ta sai những kẻ gạn lọc đến để gạn lọc nó;
Chúng sẽ đổ hết các vò của nó ra, rồi chúng sẽ đập vỡ các vò ấy ra từng mảnh.
13 Bấy giờ Mô-áp sẽ mang lấy nỗi hổ nhục về việc thờ lạy Thần Kê-mốt,
Như nhà I-sơ-ra-ên đã mang lấy nỗi hổ nhục về việc thờ lạy tượng con bò vàng ở Bê-tên,[b] vật chúng để lòng tin cậy.
14 Làm thể nào các ngươi có thể nói, ‘Chúng tôi là những anh hùng và những chiến sĩ dũng mãnh ở mặt trận,
15 Trong khi Mô-áp bị tàn phá, và quân thù của nó tiến lên các thành của nó,
Các chiến sĩ trẻ gan dạ nhất của nó đi xuống nghinh địch đều bị tàn sát?’
Ðức Vua, danh Ngài là Chúa các đạo quân, phán hỏi.
16 Tai họa của Mô-áp đã gần kề,
Ngày tàn của nó đang đến cách mau chóng.
17 Hãy than khóc cho nó, hỡi các nước lân cận của nó,
Và hỡi mọi kẻ biết danh tiếng nó;
Hãy khóc rằng, ‘Tiếc thay cho vương trượng uy quyền đã bị gãy!
Tiếc thay cho cây gậy tốt đẹp đã không còn!’
18 Hỡi nàng thiếu nữ ở Ði-bôn,
Hãy rời bỏ chỗ sang trọng của nàng,
Xuống ngồi trên mặt đất khô khan nứt nẻ;
Vì kẻ tàn phá Mô-áp đang xông lên đánh ngươi;
Nó đang tiêu diệt các thành trì kiên cố của ngươi.
19 Hỡi dân cư ở A-rô-ê,
Hãy đứng bên lề đường và quan sát;
Hãy hỏi người nam đang chạy trốn và người nữ đang lẩn tránh,
‘Chuyện gì đã xảy ra thế?’
20 Mô-áp đang bị sỉ nhục,
Vì đất nước nó đang bị giải thể.
Hãy than khóc và kêu gào!
Hãy báo tin cho dân ở Ạc-nôn biết,
Rằng Mô-áp đã bị làm cho hoang phế điêu tàn.”

21 “Sự đoán phạt đã giáng xuống miền đồng bằng: giáng xuống Hô-lôn, Gia-xa, và Mê-pha-át, 22 giáng xuống Ði-bôn, Nê-bô, và Bết Ðíp-la-tha-im, 23 giáng xuống Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-mun, và Bết Mê-ôn, 24 giáng xuống Ki-ri-ốt, Bô-ra, và tất cả các thành trong đất Mô-áp, cả xa lẫn gần. 25 Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt, cánh tay của nó đã bị gãy,” Chúa phán.

26 “Hãy bắt nó phải uống cho say, vì nó đã tự tôn nó lên bằng cách chống báng Chúa. Hãy để cho Mô-áp dầm mình trong đống ói mửa của nó, để nó cũng trở thành đầu đề cho thiên hạ chế giễu cười chê. 27 Há chẳng phải ngươi vẫn thường chê cười chế giễu I-sơ-ra-ên đấy sao? Há chẳng phải ngươi coi dân ấy là phường trộm cắp hay sao? Mỗi khi ngươi nói đến dân ấy ngươi thường lắc đầu khinh miệt.”

28 “Hỡi dân cư ở Mô-áp,
Hãy rời khỏi các thành phố, và hãy vào các hang đá mà sống!
Hãy như con bồ câu làm tổ trong hốc đá bên bờ vực thẳm.
29 Chúng ta đã từng nghe nói về thói kiêu ngạo của Mô-áp;
Nó thật là phách lối kiêu căng;
Nó hợm mình, tự cao, và tự đại,
Lòng nó luôn ngạo mạn kiêu kỳ.”
30 Chúa phán, “Ta biết rõ tính nóng nảy xấc xược của nó;
Những gì nó khoác lác ba hoa đều láo khoét cả;
Những việc nó khoe khoang đều chẳng có thực chất.
31 Vì thế Ta khóc than cho Mô-áp,
Ta vì toàn thể Mô-áp mà bật khóc,
Vì dân ở Ki-rơ Hê-rê mà sầu thảm buồn đau.
32 Hỡi cây nho ở Síp-ma,
Ta khóc cho ngươi hơn khóc cho Gia-xe;
Các cành của ngươi đã vươn qua bên kia biển,[c]
Vươn đến tận miền ven biển ở Gia-xe;
Nhưng quân tàn phá đã đến phá hủy những trái mùa hè và luôn cả mùa nho của ngươi.
33 Niềm hân hoan và vui vẻ đã bị cất đi khỏi các cánh đồng trong đất Mô-áp phì nhiêu màu mỡ;
Ta đã làm cho những bồn ép nho ngưng chảy ra nước nho;
Không kẻ đạp nho nào sẽ cất tiếng reo mừng vui vẻ;
Vì tiếng gào la không phải tiếng reo mừng.”

34 “Tiếng gào thét từ Hếch-bôn nghe thấu đến Ê-lê-a-lê, và vang vọng đến Gia-ha; từ Xô-a dội đến Hô-rô-na-im và Éc-lát Sê-li-si-gia. Vì ngay cả vùng quanh các mạch nước ở Nim-rim đều trở thành khô cằn hoang vắng.” 35 Chúa phán, “Ta sẽ làm cho ở Mô-áp không còn ai lên các nơi cao để dâng các lễ vật và dâng hương cho các thần của chúng. 36 Vì thế lòng Ta như cây sáo trỗi tiếng buồn não ruột cho Mô-áp. Lòng Ta như cây sáo trỗi điệu buồn não ruột cho dân ở Ki-rơ Hê-rê. Tiếc thay cho những của cải chúng khổ công dành dụm mà chẳng được hưởng dùng.

37 Ðầu nào cũng cạo trọc, râu ai cũng bị cạo trụi. Tất cả các đôi tay đều bị rạch nhiều lằn, và các lưng đều quấn vải thô tang chế. 38 Trên sân thượng của mọi nhà ở Mô-áp và tại các quảng trường người ta không nghe gì khác hơn là những tiếng khóc than ai oán, vì Ta đã đập vỡ Mô-áp như cái bình sành không ai muốn dùng nữa,” Chúa phán. 39 “Nó đã vỡ nát rồi! Chúng đang than khóc! Mô-áp đã quay lưng bỏ đi trong tủi nhục! Mô-áp đã trở thành một cớ cười chê và một điều kinh hãi cho các lân bang.”

40 Chúa phán thế này,

“Hãy xem, quân thù sẽ như chim đại bàng lao xuống
Và dang cánh vụt tới bắt lấy con mồi Mô-áp,
41 Các thành phố của nó sẽ bị chiếm lấy,
Các thành trì kiên cố của nó sẽ bị bao vây.
Trong ngày đó lòng các chiến sĩ của Mô-áp sẽ đau đớn quặn thắt như sản phụ lúc lâm bồn.
42 Mô-áp sẽ bị tiêu diệt để không còn là một dân nữa,
Bởi vì nó đã tự tôn nó lên bằng cách chống báng Chúa.
43 Hỡi dân cư của Mô-áp,
Hãi hùng, hố thẳm, và bẫy sập đang ở trước mặt các ngươi,” Chúa phán.
44 “Kẻ nào thoát khỏi hãi hùng sẽ rơi vào hố thẳm,
Kẻ nào leo ra được khỏi hố thẳm sẽ bị sa vào bẫy sập,
Vì Ta sẽ mang những điều ấy giáng trên Mô-áp trong năm nó bị đoán phạt,” Chúa phán.
45 “Dưới bóng mát của tường thành Hếch-bôn, những kẻ đào thoát dừng chân thở hổn hển,
Vì một ngọn lửa đã từ Hếch-bôn cháy lan ra,
Một ngọn lửa đã bốc cháy từ giữa hoàng tộc của Si-hôn;
Nó đã thiêu hủy trán của Mô-áp,
Và cháy rụi sọ của đám quân hỗn loạn.
46 Hỡi Mô-áp, khốn cho ngươi!
Dân ở Kê-mốt bị diệt vong,
Các con trai các ngươi bị bắt làm tù binh,
Các con gái các ngươi bị bắt đi lưu đày.
47 Dù vậy trong những ngày cuối cùng,
Ta sẽ tái lập vận mạng của Mô-áp,”[d] Chúa phán.
Lời tuyên án dành cho Mô-áp dừng lại ở đây.

Án Phạt Dân Am-môn

49 Về dân Am-môn, Chúa phán thế này,

“Há chẳng phải I-sơ-ra-ên không có các con trai?
Há chẳng phải ông ấy không có người thừa kế hay sao?
Thế tại sao Thần Minh-côm lại thừa kế sản nghiệp của chi tộc Gát,
Và những kẻ thờ phượng nó được đến định cư trong các thành của chi tộc ấy?
Vì vậy” Chúa phán, “Chắc chắn trong những ngày tới,
Ta sẽ cho thổi kèn xung trận tiến đánh Thành Ráp-ba của dân Am-môn;
Thành ấy sẽ bị biến nên một gò đống điêu tàn,
Các thị trấn phụ thuộc của nó sẽ bị phóng hỏa;
Bấy giờ I-sơ-ra-ên sẽ lấy lại quyền làm chủ các sản nghiệp vốn thuộc quyền sở hữu của chúng,” Chúa phán.

“Hỡi Hếch-bôn, hãy khóc than đi,
Vì Thành Ai đã bị tàn phá mất rồi.
Hỡi các thiếu nữ của Thành Ráp-ba, hãy khóc to lên,
Hãy mặc lấy vải thô làm tang phục,
Hãy than khóc bi thương,
Hãy đi tới đi lui trong thành cách âu sầu thiểu não,
Vì Thần Minh-côm sẽ bị đem đi lưu đày,
Cùng các tư tế của nó và những kẻ lãnh đạo của nó.
Hỡi người con gái bội tín, sao ngươi có thể tự hào về các thung lũng,
Các thung lũng phì nhiêu sản xuất nhiều hoa màu của ngươi?
Ngươi cậy vào của cải giàu có của mình và nói, ‘Ai sẽ dám đến đánh ta?’”
Chúa các đạo quân phán,
“Này, Ta sẽ giáng nỗi kinh hoàng xuống trên ngươi,
Nó sẽ đến từ mọi nước lân cận của ngươi;
Các ngươi sẽ bị đánh giết, và mạnh ai nấy chạy;
Không còn ai đủ bản lĩnh để quy tụ những kẻ đào thoát về một mối.
Tuy nhiên sau đó Ta sẽ tái lập vận mạng của dân Am-môn,” Chúa phán.

Án Phạt Dân Ê-đôm

Về Ê-đôm, Chúa các đạo quân phán thế này,

“Ở Hê-man há không còn sự khôn ngoan sao?
Chẳng lẽ các nhà thông thái đã không còn mưu trí sao?
Chẳng lẽ sự khôn ngoan của họ đã bị tan biến cả rồi sao?
Hỡi dân cư ở Ðê-đan,
Hãy chạy trốn, hãy quay lưng bỏ chạy, hãy trốn chui trốn nhủi cho mau!
Vì Ta sẽ mang tai họa dành cho Ê-sau đến trên nó,
Vào thời kỳ Ta đoán phạt nó.
Nếu những kẻ hái nho đến làm việc cho ngươi,
Há chẳng phải chúng sẽ chừa lại một ít nho cho kẻ nghèo đến mót hay sao?
Nếu quân trộm cắp lẻn đến ban đêm,
Há chẳng phải chúng chỉ lấy những gì chúng muốn hay sao?
10 Thế nhưng Ta, Ta sẽ lột sạch Ê-sau cho trần trụi,
Ta sẽ phơi bày những chỗ ẩn náu của nó ra,
Ðể nó không thể trốn tránh ở đâu được nữa.
Con cháu nó, bà con dòng họ nó, và những người lân cận nó, thảy đều bị tiêu diệt;
Nó không còn nữa.
11 Hãy chừa lại những trẻ mồ côi, Ta sẽ nuôi dưỡng chúng;
Còn các góa phụ của ngươi, hãy để chúng tin cậy vào Ta.”

12 Chúa phán thế này, “Nếu những kẻ không đáng tội để uống chén đoán phạt mà còn phải uống chén ấy, thì ngươi có thể thoát khỏi bị phạt sao? Ngươi sẽ không thoát khỏi bị phạt đâu; ngươi phải uống chén ấy.” 13 Chúa phán, “Vì về phần Ta, Ta đã thề rằng Bô-ra sẽ phải trở thành một đối tượng để kinh hoàng, một cớ để cười chê, một chốn điêu tàn, và một lời nguyền rủa; tất cả các thành của nó sẽ vĩnh viễn điêu tàn.”

14 Tôi đã nghe một tin từ Chúa:
Một sứ giả được sai đến giữa các quốc gia, nói rằng,
“Các người hãy hiệp nhau lại và đến tấn công nó,
Hãy đứng dậy và xông ra chiến trận!”

15 “Vì này, Ta sẽ biến ngươi ra yếu nhỏ nhất giữa các quốc gia,
Ngươi sẽ bị người ta khinh miệt.
16 Hỡi ngươi, kẻ sống trong các hốc đá trên núi cao bên bờ vực thẳm,
Kẻ chiếm giữ đỉnh đồi,
Tính khủng bố của ngươi và lòng kiêu ngạo của ngươi đã lừa dối ngươi.
Dù ngươi làm tổ cho ngươi ở trên cao như nơi chim phượng hoàng làm tổ,
Thì từ nơi đó Ta cũng sẽ đem ngươi xuống,” Chúa phán.

17 “Ê-đôm sẽ thành một đối tượng để kinh hoàng.
Ai đi qua đó sẽ kinh hãi và xầm xì chê bai, vì mọi tại họa nó đã chuốc lấy.
18 Giống như Sô-đôm, Gô-mô-ra, và những miền lân cận của chúng đã bị lật đổ thế nào,”
Chúa phán, “Thì cũng vậy, không ai sẽ sống trong xứ ấy nữa, không người nào sẽ định cư ở đó nữa.
19 Này, như con sư tử ra khỏi bụi rậm ở bờ sông Giô-đanh đuổi theo con mồi trong đồng cỏ quanh năm tươi tốt,
Ta cũng sẽ rượt đuổi Ê-đôm ra khỏi xứ sở của nó chẳng bao lâu nữa,
Rồi Ta sẽ chỉ định một người để cai trị trong xứ theo ý muốn Ta,
Vì ai giống như Ta?
Ai có thể triệu Ta đến?
Kẻ chăn dân nào có thể đứng nổi trước mặt Ta?”

20 Thế thì khá lắng nghe chương trình Chúa đã lập để chống lại Ê-đôm,
Và các kế hoạch Ngài đã lập ra để chống lại dân ở Tê-man:
Chắc chắn ngay cả những con chiên nhỏ bé trong đàn cũng sẽ bị kéo đi.
Chắc chắn những ràn của chúng trong đồng cỏ sẽ trở nên tiêu điều vắng vẻ.
21 Tin chúng bị sụp đổ làm cho đất phải rúng động;
Tiếng chúng kêu la vang vọng đến Hồng Hải.
22 Này, Ngài sẽ bay lên thật cao, rồi lao xuống như chim đại bàng,
Ngài dang cánh sà xuống bắt Bô-ra;
Trong ngày ấy lòng các dũng sĩ của Ê-đôm sẽ đớn đau quặn thắt như dạ sản phụ lúc lâm bồn.

Án Phạt Ða-mách

23 Về Ða-mách:

“Ha-mát và Ạc-pát đều hổ thẹn,
Vì chúng đã nghe tin dữ;
Chúng hồn phi phách tán,
Chúng bối rối như biển động,
Không làm sao lặng xuống được.
24 Ða-mách đã trở nên suy nhược,
Nàng quay lưng bỏ chạy thoát thân,
Nàng đã bị cơn hãi hùng bắt lấy,
Nỗi đau khổ và sầu thảm đã bám chặt lấy nàng,
Như cơn đau không rời khỏi sản phụ lúc lâm bồn.
25 Không thể nào một thành danh tiếng,
Một thành làm Ta vui vẻ như thế lại bị bỏ rơi!
26 Vì thế những trai tráng của nàng sẽ ngã xuống trong các quảng trường,
Và tất cả các chiến sĩ của nàng sẽ bị tiêu diệt trong ngày ấy,” Chúa các đạo quân phán.
27 “Ta sẽ nhóm lên một ngọn lửa trong tường thành Ða-mách,
Và nó sẽ thiêu rụi các cung điện của Bên Ha-đát.”

Án Phạt Kê-đa và Ha-xơ

28 Về Kê-đa và các vương quốc của Ha-xơ mà Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đã đánh bại, Chúa phán thế này:

“Hãy đứng dậy, tiến đánh Kê-đa!
Hãy tiêu diệt dân đó ở phương đông!
29 Hãy cướp lấy các lều trại và các đàn súc vật của chúng,
Hãy lấy đi các màn trướng và tất cả của cải chúng,
Hãy dẫn đi các lạc đà của chúng;
Hãy kêu to cho chúng biết, ‘Kinh hoàng tứ phía!’
30 Hỡi dân cư ở Ha-xơ!
Hãy trốn đi!
Hãy bỏ xứ đi xa!
Hãy chui vào các hang sâu mà ẩn náu!” Chúa phán.
“Vì Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đã lập kế hoạch chống lại ngươi,
Và đã soạn một chiến lược để tiêu diệt ngươi.
31 ‘Hãy đứng dậy, đến tấn công một quốc gia sống an lành không phòng thủ,’” Chúa phán.
“Một dân sống biệt lập, không có cổng và không có rào.
32 Các lạc đà của chúng sẽ trở thành các chiến lợi phẩm,
Các đàn súc vật của chúng sẽ là những miếng mồi ngon.
Ta sẽ phân tán những kẻ cạo tóc ở hai bên thái dương ra khắp bốn phương;
Ta sẽ đem tai họa đến với chúng từ mọi phía,” Chúa phán.
33 “Ha-xơ sẽ trở thành nơi ở của chó rừng,
Một nơi điêu tàn mãi mãi;
Không ai sống ở đó nữa,
Không ai muốn định cư ở đó nữa.”

Án Phạt Ê-lam

34 Lời của Chúa đến với Tiên Tri Giê-rê-mi liên quan đến Ê-lam, vào đầu triều đại của Xê-đê-ki-a vua Giu-đa: 35 Chúa các đạo quân phán thế này,

“Này, Ta sẽ bẻ gãy cây cung của Ê-lam,
Sức mạnh quân sự chủ lực mà chúng cậy vào.
36 Ta sẽ đem gió từ bốn phương thổi tốc vào Ê-lam;
Ta sẽ tung rải chúng ra theo mọi hướng gió;
Bấy giờ sẽ không còn một nước nào không có dân Ê-lam đến làm kẻ lưu đày.
37 Ta sẽ làm cho Ê-lam hoảng sợ trước mặt quân thù của chúng,
Và trước mặt những kẻ tìm cách lấy mạng chúng.
Trong cơn giận bừng bừng của Ta, Ta sẽ giáng họa xuống trên chúng,” Chúa phán.
“Ta sẽ sai gươm giáo đuổi theo chúng,
Cho đến khi Ta tiêu diệt chúng.
38 Bấy giờ Ta sẽ đặt ngai Ta ở Ê-lam để xử tội và diệt trừ vua của chúng và các quan của chúng,” Chúa phán.
39 “Nhưng về sau Ta sẽ tái lập vận mạng của Ê-lam,” Chúa phán.

Hê-bơ-rơ 7

Tư Tế Mên-chi-xê-đéc

Vua Mên-chi-xê-đéc ở Sa-lem này là tư tế của Ðức Chúa Trời Tối Cao, là người đã ra nghinh đón Áp-ra-ham và chúc phước cho ông, sau khi ông đánh bại[a] các vua trở về. Áp-ra-ham đã lấy một phần mười của mọi chiến lợi phẩm chia cho vua ấy. Trước hết tên của vua là “Mên-chi-xê-đéc,” có nghĩa là “Vua Công Chính,” và cũng là vua của Sa-lem, có nghĩa là “Vua Hòa Bình.” Vua không cha, không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày chết, nhưng giống như Con Ðức Chúa Trời, vua cứ làm tư tế đời đời.

Hãy xem, vua ấy cao trọng biết bao! Ngay cả tổ phụ Áp-ra-ham mà còn dâng một phần mười các chiến lợi phẩm cho vua ấy.

Các con cháu của Lê-vi, hễ ai nhận được chức vụ làm tư tế thì cứ theo điều lệ đã quy định trong Luật Pháp được quyền nhận một phần mười từ dân, tức từ các anh chị em của họ, dù họ cũng ra từ lòng Áp-ra-ham. Nhưng vua ấy, không thuộc về dòng tộc của họ, lại nhận một phần mười từ Áp-ra-ham, và vua ấy đã chúc phước cho ông, là người có lời hứa. Người bậc thấp được người bậc cao chúc phước là điều không ai thắc mắc. Ðàng này những tư tế nhận một phần mười là những phàm nhân phải qua đời, nhưng đàng kia, vua ấy lại được làm chứng là còn đang sống. Có thể nói rằng, qua Áp-ra-ham, ngay cả Lê-vi, người đã nhận một phần mười, cũng đã dâng một phần mười cho vua ấy, 10 vì Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ ông khi Mên-chi-xê-đéc ra đón gặp tổ phụ ông.

11 Vậy nếu nhờ chức vụ tư tế của người Lê-vi mà người ta được trở nên trọn vẹn –vì dân nhận được Luật Pháp trên căn bản của chức vụ tư tế ấy– thì tại sao cần phải dấy lên một tư tế khác theo dòng Mên-chi-xê-đéc, mà không là một người theo dòng A-rôn? 12 Vì khi có sự thay đổi về dòng tư tế, thì cũng cần phải thay đổi trong Luật Pháp.

Chức Vụ Tư Tế của Ðấng Christ Cao Trọng Hơn Chức Vụ Tư Tế của A-rôn

13 Về Ðấng mà những điều này luận đến lại thuộc về một chi tộc khác, một chi tộc chưa có ai được phục vụ nơi bàn thờ. 14 Vì rõ ràng rằng Chúa chúng ta đã xuất thân từ dòng dõi Giu-đa, mà về chi tộc ấy, Môi-se không nói chi về chức vụ tư tế cả.

15 Ðiều đó càng rõ ràng hơn khi một vị tư tế khác tương tự như Mên-chi-xê-đéc dấy lên, 16 Ðấng ấy không trở thành tư tế dựa trên những quy định trong Luật Pháp về huyết thống, nhưng dựa trên quyền năng của sự sống bất diệt. 17 Vì Ngài đã được chứng rằng,

“Con làm tư tế đời đời,
Theo dòng Mên-chi-xê-đéc.”Thi 110:4

18 Như vậy trong một phương diện, điều răn trước kia đã bị bãi bỏ vì bất lực và vô dụng 19 (bởi Luật Pháp chẳng làm ai trở nên trọn vẹn), nhưng một phương diện khác, một hy vọng tốt hơn đã được đưa vào thay thế; nhờ hy vọng ấy chúng ta được đến gần Ðức Chúa Trời.

20 Ðiều ấy không phải là không có lời thề xác định. 21 Vì những vị kia trở thành tư tế thì không cần lời thề, nhưng Ngài thì có một lời thề được lập bởi Ðấng đã nói với Ngài,

“Chúa đã thề và sẽ không đổi ý của Ngài,
‘Con làm tư tế đời đời.’”Thi 110:4

22 Theo lời thề ấy thì Ðức Chúa Jesus đã trở thành người bảo đảm cho một giao ước tốt hơn. 23 Ngoài ra có nhiều người đã trở thành tư tế, bởi vì sự chết ngăn trở họ tiếp tục chức vụ, 24 nhưng Ngài thì tồn tại đời đời, nên Ngài có một chức vụ tư tế vĩnh viễn. 25 Do đó Ngài có thể cứu hoàn toàn những ai nhờ Ngài mà đến gần Ðức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ.

26 Thật vậy chúng ta cần có một Vị Thượng Tế như thế, một Ðấng thánh khiết, vô tội, trong sạch, tách biệt khỏi những kẻ tội lỗi, và được cất lên cao hơn các tầng trời; 27 một Ðấng không có nhu cầu hằng ngày như bao nhiêu vị thượng tế khác, tức dâng con vật hiến tế chuộc tội cho mình và cho dân, vì Ngài đã dâng chính Ngài một lần đủ cả. 28 Vì Luật Pháp lập những con người yếu đuối làm những thượng tế, nhưng lời thề đến sau Luật Pháp thì đã lập Con, Ðấng đã được làm cho trọn vẹn đời đời.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang