Old/New Testament
Lập Thống Kê Thế Hệ Mới
26 Sau tai họa đó Chúa phán với Môi-se và Ê-lê-a-xa con trai Tư Tế A-rôn, 2 “Hãy lập một cuộc thống kê toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, những người từ hai mươi tuổi trở lên, theo từng gia tộc, mọi người I-sơ-ra-ên trong tuổi quân dịch.” 3 Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa nói với họ trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô rằng, 4 “Hãy thực hiện cuộc thống kê dân số, lập danh sách những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.”
Dân I-sơ-ra-ên đã ra khỏi đất Ai-cập gồm:
5 Ru-bên, con đầu lòng của I-sơ-ra-ên. Con cháu của Ru-bên gồm: Ha-nóc, sinh ra dòng họ Ha-nóc; Pa-lu, sinh ra dòng họ Pa-lu; 6 Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Cạt-mi, sinh ra dòng họ Cạt-mi. 7 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ru-bên. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ba ngàn bảy trăm ba mươi người. 8 Trong các con của Pa-lu có Ê-li-áp. 9 Các con của Ê-li-áp gồm: Nê-mu-ên, Ða-than, và A-bi-ram. Chính Ða-than và A-bi-ram nầy là những người được chọn để lãnh đạo hội chúng và đã toa rập với Cô-ra để chống lại Môi-se và A-rôn, khi họ nổi loạn chống nghịch Chúa. 10 Ðất đã mở miệng nuốt chửng họ cùng với Cô-ra, khiến cả bọn phải chết, và lửa cũng đã thiêu sống hai trăm năm mươi người theo họ để cảnh cáo. 11 Tuy nhiên các con của Cô-ra không chết hết.
12 Con cháu của Si-mê-ôn theo dòng họ của họ gồm: Nê-mu-ên, sinh ra dòng họ Nê-mu-ên; Gia-min, sinh ra dòng họ Gia-min; Gia-kin, sinh ra dòng họ Gia-kin; 13 Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra; Sa-un, sinh ra dòng họ Sa-un. 14 Ðó là những dòng họ các con cháu của Si-mê-ôn. Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi hai ngàn hai trăm người.
15 Con cháu của Gát theo dòng họ của họ gồm: Xê-phôn, sinh ra dòng họ Xê-phôn; Hắc-ghi, sinh ra dòng họ Hắc-ghi; Su-ni, sinh ra dòng họ Su-ni; 16 Ô-ni, sinh ra dòng họ Ô-ni; Ê-ri, sinh ra dòng họ Ê-ri; 17 A-rốt, sinh ra dòng họ A-rốt; A-rê-li, sinh ra dòng họ A-rê-li. 18 Ðó là những dòng họ các con cháu của Gát. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ngàn năm trăm người.
19 Các con của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan. Ê-rơ và Ô-nan đều đã chết trong xứ Ca-na-an. 20 Các con cháu của Giu-đa theo dòng họ của họ gồm: Sê-la, sinh ra dòng họ Sê-la; Pê-rê, sinh ra dòng họ Pê-rê; Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra. 21 Các con cháu của Pê-rê gồm: Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Ha-mun, sinh ra dòng họ Ha-mun. 22 Ðó là những dòng họ các con cháu của Giu-đa. Số người đã ghi tên vào danh sách là bảy mươi sáu ngàn năm trăm người.
23 Các con cháu của I-sa-ca theo dòng họ của họ gồm: Tô-la, sinh ra dòng họ Tô-la; Pu-va, sinh ra dòng họ Pu-va; 24 Gia-súp, sinh ra dòng họ Gia-súp; Sim-rôn, sinh ra dòng họ Sim-rôn. 25 Ðó là những dòng họ các con cháu của I-sa-ca. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn ba trăm người.
26 Các con cháu của Xê-bu-lun theo dòng họ của họ gồm: Sê-rết, sinh ra dòng họ Sê-rết; Ê-lôn, sinh ra dòng họ Ê-lôn; Gia-lê-ên, sinh ra dòng họ Gia-lê-ên. 27 Ðó là những dòng họ các con cháu của Xê-bu-lun. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi ngàn năm trăm người.
28 Các con cháu của Giô-sép theo dòng họ của họ gồm: Ma-na-se và Ép-ra-im.
29 Dòng dõi của Ma-na-se gồm: Ma-khia, sinh ra dòng họ Ma-khia; Ma-khia là cha của Ghi-lê-át. Ghi-lê-át, sinh ra dòng họ Ghi-lê-át. 30 Ðây là con cháu của Ghi-lê-át: I-ê-xê, sinh ra dòng họ I-ê-xê; Hê-léc, sinh ra dòng họ Hê-léc; 31 Át-ri-ên, sinh ra dòng họ Át-ri-ên; Sê-khem, sinh ra dòng họ Sê-khem; 32 Sê-mi-đa, sinh ra dòng họ Sê-mi-đa; và Hê-phe, sinh ra dòng họ Hê-phe. 33 Vả, Xê-lô-phê-hát con trai của Hê-phe không có con trai nhưng chỉ có các con gái. Tên các con gái của Xê-lô-phê-hát là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. 34 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ma-na-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi hai ngàn bảy trăm người.
35 Ðây là các con cháu của Ép-ra-im, theo dòng họ của họ gồm: Su-thê-la, sinh ra dòng họ Su-thê-la; Bê-che, sinh ra dòng họ Bê-che; Ta-han, sinh ra dòng họ Ta-han. 36 Ðây là các con cháu của Su-thê-la: Ê-ran, sinh ra dòng họ Ê-ran. 37 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ép-ra-im. Số người đã ghi tên vào danh sách là ba mươi hai ngàn năm trăm người.
Ðó là những con cháu của Giô-sép, theo dòng họ của họ.
38 Các con cháu của Bên-gia-min theo dòng họ của họ gồm: Bê-la, sinh ra dòng họ Bê-la; Ách-bên, sinh ra dòng họ Ách-bên; A-hi-ram, sinh ra dòng họ A-hi-ram; 39 Sê-phu-pham, sinh ra dòng họ Sê-phu-pham; Hu-pham, sinh ra dòng họ Hu-pham. 40 Các con của Bê-la là Ạc-đơ và Na-a-man; Ạc-đơ sinh ra dòng họ Ạc-đơ; Na-a-man sinh ra dòng họ Na-a-man. 41 Ðó là những dòng họ các con cháu của Bên-gia-min. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm người.
42 Ðây là các con cháu của Ðan, theo dòng họ của họ gồm: Su-ham, sinh ra dòng họ Su-ham. Ðó là dòng họ con cháu của Ðan. 43 Tất cả những dòng họ của Su-ham đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn bốn trăm người.
44 Các con cháu của A-se theo dòng họ của họ gồm: Im-na, sinh ra dòng họ Im-na; Ích-vi, sinh ra dòng họ Ích-vi; Bê-ri-a, sinh ra dòng họ Bê-ri-a. 45 Các con cháu của Bê-ri-a gồm: Hê-be, sinh ra dòng họ Hê-be; Manh-khi-ên, sinh ra dòng họ Manh-khi-ên. 46 Tên của con gái A-se là Sê-ra. 47 Ðó là những dòng họ các con cháu của A-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
48 Các con cháu của Náp-ta-li theo dòng họ của họ gồm: Gia-xê-ên, sinh ra dòng họ Gia-xê-ên; Gu-ni, sinh ra dòng họ Gu-ni; 49 Giê-xe, sinh ra dòng họ Giê-xe; Sin-lam, sinh ra dòng họ Sin-lem. 50 Ðó là những dòng họ các con cháu của Náp-ta-li. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn bốn trăm người.
51 Ðây là tổng số những người I-sơ-ra-ên đã ghi tên vào danh sách: sáu trăm lẻ một ngàn bảy trăm ba mươi người.
52 Chúa phán với Môi-se, 53 “Ðối với những người đã ghi danh thì đất đai sẽ được chia căn cứ vào số người đã ghi danh. 54 Chi tộc nào đông dân hơn sẽ được chia cho phần đất lớn hơn, còn chi tộc nào ít dân sẽ được chia cho phần đất nhỏ hơn. Như vậy mỗi chi tộc sẽ được chia phần đất tương xứng với số dân đã ghi danh. 55 Tuy nhiên đất đai sẽ được phân chia bằng cách bốc thăm; cứ theo thăm trúng tên của tổ chi tộc mà họ sẽ lãnh phần đất của mình. 56 Căn cứ theo kết quả của sự bốc thăm mà chia đất cho các chi tộc đông người hoặc ít người.”
57 Ðây là thống kê của người Lê-vi theo dòng họ của họ: Ghẹt-sôn, sinh ra dòng họ Ghẹt-sôn; Kê-hát, sinh ra dòng họ Kê-hát; Mê-ra-ri, sinh ra dòng họ Mê-ra-ri. 58 Ðây là các dòng họ của Lê-vi: dòng họ Líp-ni, dòng họ Hếp-rôn, dòng họ Mác-li, dòng họ Mu-si, dòng họ Cô-ra. Cô-ra là cha của Am-ram. 59 Vợ của Am-ram tên là Giô-kê-bết cháu gái trong dòng dõi của Lê-vi. Bà được sinh ra trong dòng họ Lê-vi khi còn ở Ai-cập. Bà sinh cho Am-ram: A-rôn, Môi-se, và chị của họ là Mi-ri-am. 60 A-rôn sinh được Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết khi họ dâng một thứ lửa uế dị trước mặt Chúa. 62 Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi ba ngàn. Ðó là số những người nam tuổi từ một tháng trở lên. Họ không ghi danh chung với dân I-sơ-ra-ên, bởi vì họ không được chia phần sản nghiệp ở giữa dân I-sơ-ra-ên.
63 Ðó là những người đã ghi danh với Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa khi họ thực hiện cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô. 64 Trong số những người được thống kê lần nầy không có người nào đã ghi danh trong cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên do Môi-se và Tư Tế A-rôn thực hiện trước kia trong Ðồng Hoang Si-nai, 65 vì Chúa đã bảo, “Họ phải qua đời trong đồng hoang.” Quả là không còn ai sống sót, ngoại trừ Ca-lép con của Giê-phu-nê và Giô-suê con của Nun.
Các Con Gái của Xê-lô-phê-hát
(Dân 36:1-12)
27 Bấy giờ các con gái của Xê-lô-phê-hát đến gần. Xê-lô-phê-hát là con của Hê-phe, cháu của Ghi-lê-át, chắt của Ma-khia, chít của Ma-na-se, thuộc về chi tộc Ma-na-se con trai Giô-sép. Tên các con gái của ông là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. 2 Họ đứng trước mặt Môi-se, Tư Tế Ê-lê-a-xa, các vị lãnh đạo, và toàn thể hội chúng, ở trước cửa Lều Hội Kiến và nói, 3 “Cha chúng tôi đã qua đời trong đồng hoang. Cha chúng tôi không phải là người trong số những người đã toa rập với nhau chống lại Chúa trong nhóm của Cô-ra, nhưng ông đã qua đời vì tội riêng của mình, và ông không có con trai. 4 Tại sao tên của cha chúng tôi bị loại bỏ khỏi danh sách của dòng họ mình chỉ vì ông không có con trai? Xin hãy cho chúng tôi một phần sản nghiệp giữa các anh em của cha chúng tôi.”
5 Môi-se trình duyên cớ họ lên trước mặt Chúa. 6 Chúa phán với Môi-se, 7 “Các con gái của Xê-lô-phê-hát nói rất đúng. Ngươi phải cho họ hưởng một phần sản nghiệp giữa các anh em của cha họ, và hãy trao phần sản nghiệp của cha họ cho họ. 8 Ngươi cũng hãy nói với dân I-sơ-ra-ên rằng: nếu người nào qua đời mà không có con trai, người ấy phải trao phần sản nghiệp của mình cho con gái mình. 9 Nếu người ấy không có con gái, hãy trao phần sản nghiệp đó cho các anh em của người ấy. 10 Nếu người ấy không có anh em, hãy trao phần sản nghiệp đó cho các anh em của cha người ấy. 11 Nếu cha người ấy không có anh em, hãy trao phần sản nghiệp đó cho người bà con nào gần nhất trong dòng họ của người ấy, và người đó sẽ được hưởng phần sản nghiệp đó. Ðiều ấy sẽ thành một quy luật để phân xử trong dân I-sơ-ra-ên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.”
Giô-suê Ðược Chọn Kế Vị Môi-se
12 Sau đó Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy đi lên núi nầy, đến Rặng A-ba-rim, và ngắm xem xứ mà Ta sẽ ban cho dân I-sơ-ra-ên. 13 Khi ngươi đã thấy nó rồi, ngươi sẽ quy về với tổ tông ngươi như A-rôn anh ngươi, 14 vì ngươi đã cãi lời Ta trong Ðồng Hoang Xin, khi hội chúng gây sự với Ta. Ngươi đã không tôn thánh Ta trước mắt chúng trong việc cung cấp nước.” Ðó là vụ nước ở Mê-ri-ba trong vùng Ca-đe ở Ðồng Hoang Xin.
15 Môi-se thưa với Chúa, 16 “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của linh khí[a] mọi loài xác thịt, chỉ định một người để lãnh đạo hội chúng, 17 một người sẽ đi ra đi vào trước mặt họ, một người sẽ dẫn họ ra đi và đem họ về, để hội chúng của Chúa sẽ không như chiên không có người chăn.”
18 Chúa phán với Môi-se, “Hãy chọn lấy Giô-suê con trai của Nun, một người có Thần[b] ngự bên trong. Ngươi hãy đặt tay trên ông ấy. 19 Hãy dẫn ông ấy ra mắt Tư Tế Ê-lê-a-xa và toàn thể hội chúng, rồi trao quyền cho ông ấy trước mắt họ. 20 Ngươi hãy trao cho ông ấy quyền hành của ngươi, để toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên vâng lệnh ông ấy. 21 Ông ấy sẽ đứng trước mặt Tư Tế Ê-lê-a-xa, người sẽ dùng U-rim để cầu hỏi thánh ý cho ông ấy trước mặt Chúa. Rồi cứ theo lệnh ông ấy mà họ sẽ đi ra, và theo lệnh ông ấy mà họ sẽ đi vào, ông ấy và mọi người I-sơ-ra-ên ở với ông ấy, tức toàn thể hội chúng.”
22 Môi-se làm y như Chúa đã truyền cho ông. Ông dẫn Giô-suê đến trước mặt Ê-lê-a-xa và toàn thể hội chúng. 23 Ông đặt tay trên ông ấy và trao quyền cho ông ấy, như Chúa đã phán qua Môi-se.
Của Lễ Dâng Hằng Ngày
28 Chúa phán với Môi-se, 2 “Hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Về của lễ dâng lên Ta, tức thực phẩm dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Ta, các ngươi khá dâng lên đúng thời điểm đã ấn định. 3 Ngươi hãy bảo họ: Ðây là của lễ các ngươi sẽ dùng lửa dâng lên Chúa: Ngày nào các ngươi cũng phải dâng hai con chiên đực một tuổi không tì vết để làm của lễ hằng ngày. 4 Một con sẽ dâng vào buổi sáng, và một con vào chiều tối, 5 cùng với của lễ chay gồm hai lít[c] bột thượng hạng trộn với một lít[d] dầu nguyên chất đã được ép ra. 6 Ðó là của lễ thiêu dâng lên thường xuyên đã được thiết lập tại Núi Si-nai, một của lễ dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. 7 Của lễ quán cặp theo sẽ là một lít[e] rượu cho mỗi con chiên; rượu mạnh làm của lễ quán ấy sẽ được đổ ra trong nơi thánh để dâng lên Chúa. 8 Còn con chiên kia sẽ được dâng vào lúc chiều tối, cùng với của lễ chay và của lễ quán, giống như cách đã dâng con chiên vào buổi sáng; của lễ ấy sẽ được dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa.
Của Lễ Dâng Ngày Sa-bát
9 Mỗi ngày Sa-bát các ngươi sẽ dâng hai con chiên đực một tuổi, không tì vết, cùng với của lễ chay gồm bốn lít[f] bột thượng hạng trộn dầu, và của lễ quán. 10 Ðó là của lễ thiêu dâng đặc biệt trong ngày Sa-bát, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó.
Của Lễ Dâng Ngày Mồng Một
11 Vào mỗi ngày đầu tháng các ngươi sẽ dâng một của lễ thiêu lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi, thảy đều không tì vết. 12 Của lễ chay dâng kèm theo khi dâng mỗi con bò đực là sáu lít rưỡi[g] bột thượng hạng trộn dầu; còn của lễ chay khi dâng con chiên đực đã lớn là bốn lít[h] bột thượng hạng trộn dầu; 13 và của lễ chay khi dâng mỗi con chiên đực con là hai lít[i] bột thượng hạng trộn dầu. Ðó là của lễ thiêu dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. 14 Còn lễ quán cặp theo là hai lít[j] rượu cho mỗi con bò đực, một lít rưỡi[k] rượu cho con chiên đực đã lớn, và một lít[l] rượu cho mỗi con chiên đực con. Ðó là của lễ thiêu dâng lên vào mỗi đầu tháng cho tất cả tháng trong năm. 15 Các ngươi cũng phải dâng lên Chúa một con dê đực để làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó.
Của Lễ Dâng Trong Lễ Vượt Qua
(Xuất 12:14-20; Lê 23:4-8; Phục 16:1-8)
16 Cứ đến ngày mười bốn tháng giêng các ngươi phải giữ Lễ Vượt Qua để tôn kính Chúa. 17 Ngày mười lăm tháng đó sẽ là ngày lễ; các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. 18 Ngày thứ nhất các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi sẽ nghỉ làm các công việc thường nhật của mình. 19 Các ngươi sẽ dùng lửa dâng một của lễ thiêu lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi; các ngươi phải xem kỹ là chúng không có tì vết gì. 20 Của lễ chay dâng kèm theo với chúng là bột thượng hạng trộn dầu; các ngươi sẽ dâng sáu lít rưỡi[m] cho một con bò đực, bốn lít[n] cho con chiên đực đã lớn, 21 và hai lít[o] cho mỗi con của bảy con chiên đực con. 22 Các ngươi cũng phải dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội cho mình. 23 Các ngươi hãy dâng những của lễ nầy ngoài những của lễ thiêu dâng vào buổi sáng, tức là của lễ thiêu dâng hằng ngày. 24 Trong suốt bảy ngày, ngày nào các ngươi cũng phải dâng những của lễ như thế; đó là những thực phẩm được dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. Các ngươi sẽ dâng những của lễ ấy ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó. 25 Ngày thứ bảy các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi hãy nghỉ làm những công việc thường nhật của mình.
Của Lễ Dâng Trong Lễ Các Tuần
(Lê 23:15-22; Phục 16:9-12)
26 Vào ngày lễ dâng hoa quả đầu mùa, khi các ngươi dâng lên Chúa những hoa lợi mới để làm của lễ chay trong Lễ Các Tuần, các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi hãy nghỉ làm công việc thường nhật của mình. 27 Các ngươi hãy dâng một của lễ thiêu, một của lễ có mùi thơm dâng lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi. 28 Của lễ chay cặp theo với chúng sẽ là bột thượng hạng trộn dầu, gồm sáu lít rưỡi[p] cho một con bò đực, bốn lít[q] cho con chiên đực đã lớn, 29 và hai lít[r] cho mỗi con của bảy con chiên đực con. 30 Các ngươi cũng phải dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội cho mình. 31 Ðó là những của lễ các ngươi sẽ dâng, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày, cùng với của lễ chay và của lễ quán cặp theo với chúng. Tất cả con vật hiến tế đó đều không tì vết.
Chúa Hóa Bánh cho Bốn Ngàn Người Ăn
(Mat 15:32-39)
8 Trong những ngày ấy lại có một đám đông rất lớn, và họ không có gì ăn. Ngài gọi các môn đồ Ngài đến và bảo, 2 “Ta thương xót đoàn dân này, vì ba ngày nay họ đã theo Ta, bây giờ không có gì để ăn. 3 Nếu Ta cho họ về nhà trong lúc bụng đói, họ có thể bị xỉu dọc đường. Hơn nữa, có những người từ xa đến đây.”
4 Các môn đồ Ngài thưa với Ngài, “Ai có thể tìm ở đâu ra bánh trong nơi hoang vắng này để cho những người này ăn?”
5 Ngài hỏi họ, “Các ngươi có bao nhiêu bánh?”
Họ đáp, “Thưa có bảy cái.”
6 Ngài truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Ðoạn Ngài lấy bảy cái bánh, tạ ơn, bẻ ra, và đưa cho các môn đồ để họ phân phát; các môn đồ phát bánh cho đám đông. 7 Họ cũng có mấy con cá nhỏ. Sau khi ban phước trên chúng, Ngài truyền phát những cá ấy ra nữa. 8 Ðoàn dân ăn no nê. Họ gom lại những mảnh bánh thừa và được bảy giỏ đầy. 9 Có khoảng bốn ngàn người hôm đó. Ðoạn Ngài tiễn họ ra về. 10 Ngay sau đó Ngài và các môn đồ Ngài xuống thuyền đến miền Ðan-ma-nu-tha.
Người Pha-ri-si Xin Dấu Lạ
(Mat 16:1-4)
11 Những người Pha-ri-si kéo đến và bắt đầu tranh luận với Ngài. Họ thử Ngài bằng cách yêu cầu Ngài cho một dấu lạ từ trời. 12 Ngài thở dài ngao ngán[a] và nói, “Tại sao thế hệ này đòi xem một dấu lạ? Quả thật, Ta nói với các ngươi, thế hệ này sẽ chẳng được ban cho dấu lạ nào cả.” 13 Ngài rời khỏi họ, xuống thuyền trở lại, và qua bờ bên kia.
Men của Người Pha-ri-si
(Mat 16:5-12)
14 Khi ấy các môn đồ quên mang bánh theo; trên thuyền chỉ có mỗi một ổ bánh. 15 Ngài nghiêm dặn họ rằng, “Hãy coi chừng! Hãy đề phòng men của những người Pha-ri-si và men của những người của Hê-rốt.”
16 Các môn đồ bàn với nhau, “Thầy nói thế vì chúng ta không có bánh.”
17 Biết vậy Ngài nói với họ, “Tại sao các ngươi bàn với nhau về việc không có bánh? Các ngươi không thấy hoặc không hiểu sao? Lòng các ngươi vẫn cứng cỏi sao? 18 Mắt các ngươi không thấy và tai các ngươi không nghe sao? Các ngươi chẳng nhớ sao? 19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”
Họ đáp, “Thưa mười hai giỏ.”
20 “Còn khi bảy cái bánh cho bốn ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”
Họ đáp, “Thưa bảy giỏ.”
21 Ngài nói với họ, “Các ngươi vẫn còn chưa hiểu sao?”
Chúa Chữa Lành Người Mù
22 Họ đến Bết-sai-đa. Bấy giờ người ta đem đến Ngài một người mù và nài xin Ngài chạm đến người ấy. 23 Ngài nắm tay người mù và dắt ông ra ngoài làng. Ðoạn Ngài phun nước miếng vào mắt ông và đặt tay trên ông, Ngài hỏi ông, “Ngươi thấy gì không?” 24 Người mù ngước lên nhìn và đáp, “Tôi thấy người ta như cây cối đang đi.” 25 Ngài lại đặt hai tay trên hai mắt ông. Ông ngước lên nhìn chăm chú; thị giác ông hoàn toàn bình phục, và ông thấy mọi vật rõ ràng. 26 Ngài bảo ông đi về nhà và dặn, “Ngươi đừng vào trong làng.”
Phi-rơ Tuyên Xưng Chúa
(Mat 16:13-20; Lu 9:18-21)
27 Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đến các làng trong miền Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường Ngài hỏi các môn đồ, “Người ta nói Ta là ai?”
28 Họ đáp, “Có người nói Thầy là Giăng Báp-tít, người khác nói Thầy là Ê-li, người khác nữa lại nói Thầy là một trong các đấng tiên tri.”
29 Ngài hỏi họ, “Còn các ngươi nói Ta là ai?”
Phi-rơ đáp, “Thầy là Ðấng Christ.” 30 Ngài nghiêm dặn họ không được nói cho ai biết Ngài là ai.
Chúa Nói Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài
(lần thứ nhất)
(Mat 16:21-23; Lu 9:22)
31 Bấy giờ Ngài bắt đầu dạy họ rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các trưởng lão, các trưởng tế, và các thầy dạy giáo luật loại trừ, và sẽ bị giết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.
32 Ngài nói những điều ấy cách công khai, nhưng Phi-rơ đem Ngài riêng ra và bắt đầu trách Ngài. 33 Ngài quay lại, nhìn các môn đồ, và quở Phi-rơ, “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra sau Ta! Vì ngươi không để tâm trí đến việc của Ðức Chúa Trời mà chỉ nghĩ đến việc của loài người.”
Ðiều Kiện Ðể Theo Chúa
(Mat 16:24-27; Lu 9:23-27)
34 Ngài gọi đám đông và các môn đồ Ngài lại gần và nói với họ, “Nếu ai muốn theo Ta, người ấy phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình, mà theo Ta. 35 Vì ai muốn cứu mạng sống mình sẽ mất nó, nhưng ai mất mạng sống mình vì cớ Ta và vì Tin Mừng sẽ cứu được nó. 36 Vì nếu người nào được cả thế giới mà mất linh hồn mình thì có ích gì? 37 Người ấy sẽ lấy chi để đổi linh hồn[b] mình lại? 38 Vậy nếu ai hổ thẹn về Ta và lời Ta giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người ấy khi ngự đến trong vinh hiển của Cha mình với các thiên sứ thánh.”
Copyright © 2011 by Bau Dang