Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Dân Số 26

Lập Thống Kê Thế Hệ Mới

26 Sau tai họa đó Chúa phán với Môi-se và Ê-lê-a-xa con trai Tư Tế A-rôn, “Hãy lập một cuộc thống kê toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, những người từ hai mươi tuổi trở lên, theo từng gia tộc, mọi người I-sơ-ra-ên trong tuổi quân dịch.” Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa nói với họ trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô rằng, “Hãy thực hiện cuộc thống kê dân số, lập danh sách những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.”

Dân I-sơ-ra-ên đã ra khỏi đất Ai-cập gồm:

Ru-bên, con đầu lòng của I-sơ-ra-ên. Con cháu của Ru-bên gồm: Ha-nóc, sinh ra dòng họ Ha-nóc; Pa-lu, sinh ra dòng họ Pa-lu; Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Cạt-mi, sinh ra dòng họ Cạt-mi. Ðó là những dòng họ các con cháu của Ru-bên. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ba ngàn bảy trăm ba mươi người. Trong các con của Pa-lu có Ê-li-áp. Các con của Ê-li-áp gồm: Nê-mu-ên, Ða-than, và A-bi-ram. Chính Ða-than và A-bi-ram nầy là những người được chọn để lãnh đạo hội chúng và đã toa rập với Cô-ra để chống lại Môi-se và A-rôn, khi họ nổi loạn chống nghịch Chúa. 10 Ðất đã mở miệng nuốt chửng họ cùng với Cô-ra, khiến cả bọn phải chết, và lửa cũng đã thiêu sống hai trăm năm mươi người theo họ để cảnh cáo. 11 Tuy nhiên các con của Cô-ra không chết hết.

12 Con cháu của Si-mê-ôn theo dòng họ của họ gồm: Nê-mu-ên, sinh ra dòng họ Nê-mu-ên; Gia-min, sinh ra dòng họ Gia-min; Gia-kin, sinh ra dòng họ Gia-kin; 13 Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra; Sa-un, sinh ra dòng họ Sa-un. 14 Ðó là những dòng họ các con cháu của Si-mê-ôn. Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi hai ngàn hai trăm người.

15 Con cháu của Gát theo dòng họ của họ gồm: Xê-phôn, sinh ra dòng họ Xê-phôn; Hắc-ghi, sinh ra dòng họ Hắc-ghi; Su-ni, sinh ra dòng họ Su-ni; 16 Ô-ni, sinh ra dòng họ Ô-ni; Ê-ri, sinh ra dòng họ Ê-ri; 17 A-rốt, sinh ra dòng họ A-rốt; A-rê-li, sinh ra dòng họ A-rê-li. 18 Ðó là những dòng họ các con cháu của Gát. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ngàn năm trăm người.

19 Các con của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan. Ê-rơ và Ô-nan đều đã chết trong xứ Ca-na-an. 20 Các con cháu của Giu-đa theo dòng họ của họ gồm: Sê-la, sinh ra dòng họ Sê-la; Pê-rê, sinh ra dòng họ Pê-rê; Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra. 21 Các con cháu của Pê-rê gồm: Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Ha-mun, sinh ra dòng họ Ha-mun. 22 Ðó là những dòng họ các con cháu của Giu-đa. Số người đã ghi tên vào danh sách là bảy mươi sáu ngàn năm trăm người.

23 Các con cháu của I-sa-ca theo dòng họ của họ gồm: Tô-la, sinh ra dòng họ Tô-la; Pu-va, sinh ra dòng họ Pu-va; 24 Gia-súp, sinh ra dòng họ Gia-súp; Sim-rôn, sinh ra dòng họ Sim-rôn. 25 Ðó là những dòng họ các con cháu của I-sa-ca. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn ba trăm người.

26 Các con cháu của Xê-bu-lun theo dòng họ của họ gồm: Sê-rết, sinh ra dòng họ Sê-rết; Ê-lôn, sinh ra dòng họ Ê-lôn; Gia-lê-ên, sinh ra dòng họ Gia-lê-ên. 27 Ðó là những dòng họ các con cháu của Xê-bu-lun. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi ngàn năm trăm người.

28 Các con cháu của Giô-sép theo dòng họ của họ gồm: Ma-na-se và Ép-ra-im.

29 Dòng dõi của Ma-na-se gồm: Ma-khia, sinh ra dòng họ Ma-khia; Ma-khia là cha của Ghi-lê-át. Ghi-lê-át, sinh ra dòng họ Ghi-lê-át. 30 Ðây là con cháu của Ghi-lê-át: I-ê-xê, sinh ra dòng họ I-ê-xê; Hê-léc, sinh ra dòng họ Hê-léc; 31 Át-ri-ên, sinh ra dòng họ Át-ri-ên; Sê-khem, sinh ra dòng họ Sê-khem; 32 Sê-mi-đa, sinh ra dòng họ Sê-mi-đa; và Hê-phe, sinh ra dòng họ Hê-phe. 33 Vả, Xê-lô-phê-hát con trai của Hê-phe không có con trai nhưng chỉ có các con gái. Tên các con gái của Xê-lô-phê-hát là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. 34 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ma-na-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi hai ngàn bảy trăm người.

35 Ðây là các con cháu của Ép-ra-im, theo dòng họ của họ gồm: Su-thê-la, sinh ra dòng họ Su-thê-la; Bê-che, sinh ra dòng họ Bê-che; Ta-han, sinh ra dòng họ Ta-han. 36 Ðây là các con cháu của Su-thê-la: Ê-ran, sinh ra dòng họ Ê-ran. 37 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ép-ra-im. Số người đã ghi tên vào danh sách là ba mươi hai ngàn năm trăm người.

Ðó là những con cháu của Giô-sép, theo dòng họ của họ.

38 Các con cháu của Bên-gia-min theo dòng họ của họ gồm: Bê-la, sinh ra dòng họ Bê-la; Ách-bên, sinh ra dòng họ Ách-bên; A-hi-ram, sinh ra dòng họ A-hi-ram; 39 Sê-phu-pham, sinh ra dòng họ Sê-phu-pham; Hu-pham, sinh ra dòng họ Hu-pham. 40 Các con của Bê-la là Ạc-đơ và Na-a-man; Ạc-đơ sinh ra dòng họ Ạc-đơ; Na-a-man sinh ra dòng họ Na-a-man. 41 Ðó là những dòng họ các con cháu của Bên-gia-min. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm người.

42 Ðây là các con cháu của Ðan, theo dòng họ của họ gồm: Su-ham, sinh ra dòng họ Su-ham. Ðó là dòng họ con cháu của Ðan. 43 Tất cả những dòng họ của Su-ham đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn bốn trăm người.

44 Các con cháu của A-se theo dòng họ của họ gồm: Im-na, sinh ra dòng họ Im-na; Ích-vi, sinh ra dòng họ Ích-vi; Bê-ri-a, sinh ra dòng họ Bê-ri-a. 45 Các con cháu của Bê-ri-a gồm: Hê-be, sinh ra dòng họ Hê-be; Manh-khi-ên, sinh ra dòng họ Manh-khi-ên. 46 Tên của con gái A-se là Sê-ra. 47 Ðó là những dòng họ các con cháu của A-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.

48 Các con cháu của Náp-ta-li theo dòng họ của họ gồm: Gia-xê-ên, sinh ra dòng họ Gia-xê-ên; Gu-ni, sinh ra dòng họ Gu-ni; 49 Giê-xe, sinh ra dòng họ Giê-xe; Sin-lam, sinh ra dòng họ Sin-lem. 50 Ðó là những dòng họ các con cháu của Náp-ta-li. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn bốn trăm người.

51 Ðây là tổng số những người I-sơ-ra-ên đã ghi tên vào danh sách: sáu trăm lẻ một ngàn bảy trăm ba mươi người.

52 Chúa phán với Môi-se, 53 “Ðối với những người đã ghi danh thì đất đai sẽ được chia căn cứ vào số người đã ghi danh. 54 Chi tộc nào đông dân hơn sẽ được chia cho phần đất lớn hơn, còn chi tộc nào ít dân sẽ được chia cho phần đất nhỏ hơn. Như vậy mỗi chi tộc sẽ được chia phần đất tương xứng với số dân đã ghi danh. 55 Tuy nhiên đất đai sẽ được phân chia bằng cách bốc thăm; cứ theo thăm trúng tên của tổ chi tộc mà họ sẽ lãnh phần đất của mình. 56 Căn cứ theo kết quả của sự bốc thăm mà chia đất cho các chi tộc đông người hoặc ít người.”

57 Ðây là thống kê của người Lê-vi theo dòng họ của họ: Ghẹt-sôn, sinh ra dòng họ Ghẹt-sôn; Kê-hát, sinh ra dòng họ Kê-hát; Mê-ra-ri, sinh ra dòng họ Mê-ra-ri. 58 Ðây là các dòng họ của Lê-vi: dòng họ Líp-ni, dòng họ Hếp-rôn, dòng họ Mác-li, dòng họ Mu-si, dòng họ Cô-ra. Cô-ra là cha của Am-ram. 59 Vợ của Am-ram tên là Giô-kê-bết cháu gái trong dòng dõi của Lê-vi. Bà được sinh ra trong dòng họ Lê-vi khi còn ở Ai-cập. Bà sinh cho Am-ram: A-rôn, Môi-se, và chị của họ là Mi-ri-am. 60 A-rôn sinh được Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết khi họ dâng một thứ lửa uế dị trước mặt Chúa. 62 Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi ba ngàn. Ðó là số những người nam tuổi từ một tháng trở lên. Họ không ghi danh chung với dân I-sơ-ra-ên, bởi vì họ không được chia phần sản nghiệp ở giữa dân I-sơ-ra-ên.

63 Ðó là những người đã ghi danh với Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa khi họ thực hiện cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô. 64 Trong số những người được thống kê lần nầy không có người nào đã ghi danh trong cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên do Môi-se và Tư Tế A-rôn thực hiện trước kia trong Ðồng Hoang Si-nai, 65 Chúa đã bảo, “Họ phải qua đời trong đồng hoang.” Quả là không còn ai sống sót, ngoại trừ Ca-lép con của Giê-phu-nê và Giô-suê con của Nun.

Thánh Thi 69

Lời Kêu Van với Chúa trong Cơn Hoạn Nạn

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Theo điệu “Hoa Huệ”

Ðức Chúa Trời ôi, xin cứu con,
Vì các dòng nước đã ngập đến cổ con.
Con đã bị lún sâu trong một vũng lầy;
Thật là một vũng lầy không đáy.
Con bị rơi vào giữa dòng nước sâu;
Dòng cuồng lưu cuốn hút lấy con.
Con kêu van đến kiệt lực;
Cổ họng con đã gần tắt tiếng;
Mắt con đã đờ đẫn,
Trong khi con trông đợi Ðức Chúa Trời của con đến cứu.

Những kẻ ghét con vô cớ thật nhiều hơn tóc trên đầu con;
Những kẻ muốn tiêu diệt con thật mạnh mẽ thay!
Ðó là những kẻ thù ghét con vô cớ.
Con đã bị bắt bồi thường cho những gì con không lấy.
Ðức Chúa Trời ôi, Ngài đã biết sự dại dột của con;
Những tội lỗi của con chẳng giấu được Ngài.

Lạy Chúa, Chúa các đạo quân!
Nguyện ai trông cậy Ngài sẽ không vì con mà hổ thẹn;
Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên ôi,
Nguyện những ai tìm kiếm Ngài sẽ không bị sỉ nhục vì con.
Vì cớ Ngài con bị người ta mắng nhiếc;
Mặt con chẳng còn thể diện gì nữa.
Con đã trở thành kẻ xa lạ đối với anh chị em[a] con,
Thành người ngoại tộc đối với các con cái[b] của mẹ con;

Vì lòng nhiệt thành về nhà Ngài đã thiêu đốt con,
Những lời sỉ nhục của những kẻ sỉ nhục Ngài đã đổ trên con.
10 Khi con kiêng ăn và than khóc,
Con trở thành đối tượng cho người ta mắng nhiếc.
11 Khi con mặc bao gai,
Con trở thành đề tài giễu cợt cho người ta.
12 Những viên chức ngồi ở cổng thành chế giễu con;
Contrở thành câu hát cho những kẻ say sưa châm biếm.

13 Nhưng phần con, Chúa ôi, con vẫn cầu nguyện với Ngài;
Ðức Chúa Trời ôi, để trong lúc Ngài gia ân ban phước,
Theo tình thương lớn lao của Ngài,
Ngài đáp lời con bằng chân lý cứu rỗi của Ngài.
14 Xin cứu con khỏi chốn bùn lầy;
Xin đừng để con bị lún chìm xuống nữa;
Xin giải cứu con khỏi những kẻ ghét con,
Và khỏi những vùng nước sâu.
15 Xin đừng để dòng cuồng lưu cuốn hút lấy con;
Xin đừng để vực sâu nuốt chửng con;
Và xin đừng để vực thẳm khép miệng lại trên con.

16 Xin nhậm lời con, Chúa ôi, vì tình yêu của Ngài thật tuyệt vời;
Xin quay lại với con theo ơn thương xót lớn lao của Ngài.
17 Xin đừng ẩn mặt Ngài đối với tôi tớ Ngài;
Xin mau đáp lời cầu nguyện của con vì con đang gặp hoạn nạn.
18 Xin đến gần linh hồn con và cứu con;
Xin giải cứu con vì những kẻ thù của con.

19 Ngài biết con bị mắng nhiếc, sỉ nhục, và xấu hổ đến thế nào rồi.
Tất cả kẻ thù của con đều ở trước mặt Ngài.
20 Những lời mắng nhiếc của chúng làm tan nát lòng con.
Con đau đớn lắm.
Con mong có được người cảm thương, nhưng chẳng có ai.
Con ước ao được có người an ủi, nhưng nào đâu thấy.
21 Chúng đã đưa mật đắng cho con làm thức ăn.
Chúng đã trao giấm chua cho con làm thức uống.

22 Nguyện bàn tiệc của chúng trở thành một cái bẫy.
Nguyện nó thành một hình phạt đích đáng và một cạm bẫy.
23 Nguyện mắt chúng bị đui mù, chẳng còn trông thấy nữa.
Nguyện lưng chúng cụp xuống và run rẩy luôn luôn.
24 Xin Ngài trút cơn thịnh nộ của Ngài trên chúng;
Xin Ngài đổ cơn giận của Ngài xuống đầu chúng.
25 Nguyện chỗ ở của chúng bị bỏ hoang;
Nguyện nhà[c] của chúng chẳng còn ai ở,
26 Bởi vì chúng bách hại người bị Ngài sửa phạt,
Chúng làm cho đau đớn thêm người bị Ngài làm cho đau.
27 Xin Ngài cộng thêm tội ấy vào các tội khác của chúng;
Xin đừng cho chúng hưởng ơn tha thứ[d] của Ngài.
28 Nguyện chúng bị xóa tên khỏi sách sự sống,[e]
Và không có tên trong danh sách những người ngay lành.

29 Còn con, con bị khốn cùng và đau khổ;
Ðức Chúa Trời ôi, nguyện ơn giải cứu của Ngài đặt con ở nơi an toàn trên cao.

30 Tôi sẽ dùng bài hát để ca ngợi danh Ðức Chúa Trời;
Tôi sẽ tán dương Ngài bằng sự tạ ơn.
31 Ðiều ấy sẽ đẹp lòng Chúa hơn dâng một con bò đực;
Thật hơn dâng một con bò đực có đủ móng và đủ sừng.
32 Hỡi những người khiêm hạ, hãy thấy điều đó mà vui mừng;
Hỡi các bạn là những người tìm kiếm Ðức Chúa Trời, hãy nức lòng phấn khởi.
33 Chúa lắng nghe những người khốn khổ;
Ngài không khinh khi con dân Ngài khi họ bị tù đày.

34 Nguyện trời và đất ca ngợi Ngài;
Nguyện biển và mọi vật trong biển ca tụng Ngài.
35 Vì Ðức Chúa Trời sẽ cứu Si-ôn;
Ngài sẽ xây dựng lại những thành trì của Giu-đa;
Rồi người ta sẽ định cư ở đó và lập nghiệp trong xứ ấy.
36 Con cháu của các tôi tớ Ngài sẽ thừa hưởng xứ đó,
Và những ai yêu mến danh Ngài sẽ cư ngụ trong đó.

Ê-sai 16

16 Hãy gởi các chiên con làm quà cho người cai trị trong xứ,
Từ Sê-la trong vùng đồng hoang đến ngọn núi Ái Nữ của Si-ôn.
Bấy giờ tại những khúc sông cạn ở Ạt-nôn,
Các thiếu nữ của Mô-áp sẽ chạy trốn tán loạn như đàn chim non vỡ tổ.

“Xin hãy lập một kế hoạch,
Xin hãy thực thi công lý;
Xin tỏa bóng mát như trời đêm ngay giữa chính ngọ;
Xin che giấu những người bị đuổi giết;
Ðừng tố giác những người đang lẩn trốn.
Hãy cho những người Mô-áp bị đuổi giết được lánh cư;
Hãy làm nơi ẩn náu cho họ để họ thoát khỏi tay những kẻ đang truy lùng tiêu diệt họ.”
Vì sẽ có lúc những kẻ đàn áp họ không còn nữa;
Ý đồ tiêu diệt họ sẽ ngưng;
Những kẻ giày đạp họ biến mất khỏi xứ.
Bấy giờ một ngai sẽ được lập lên trong tình thương
Trong lều của Ða-vít;
Trên ngai ấy một người thành tín sẽ trị vì;
Người ấy sẽ luôn kiếm tìm công lý,
Và lẹ làng thi hành lẽ công chính.

Chúng ta đã nghe về tính kiêu ngạo của Mô-áp;
Chúng ta đã biết nó kiêu ngạo như thế nào;
Nó hay ngang tàng, kiêu căng, và xấc xược;
Chúng ta biết rõ: những gì nó phô trương chỉ là rỗng tuếch.
Vì thế hãy để cho Mô-áp khóc than,
Hãy để cho mọi người Mô-áp khóc than về nó.
Hãy cứ khóc lóc sầu thảm,
Hãy cực kỳ khổ đau sầu não,
Hãy nuối tiếc những bánh nho sản xuất ở Ki-rơ Ha-rê-sết.
Vì ruộng vườn ở Hết-bôn tiêu điều,
Những vườn nho ở Síp-ma cũng vậy,
Vua chúa của các dân đã từng bị rượu từ các chùm nho ấy làm say gục,[a]
Những cây nho đã từng vươn cành đến tận Gia-ê-xe, lan mãi đến vùng sa mạc;
Những nhánh ấy đã mọc tràn ra bên ngoài, băng qua cả đại dương.
Vì thế Ta sẽ khóc với dân Gia-ê-xe khi chúng khóc vì thương tiếc những vườn nho ở Síp-ma;
Hỡi Hết-bôn, hỡi Ê-lê-a-lê, nước mắt Ta sẽ dầm dề vì các ngươi,
Vì những tiếng hát câu hò trong mùa hái nho và mùa gặt lúa sẽ không còn nữa.
10 Niềm hân hoan và vui mừng vì ruộng vườn trúng mùa đã bị cất đi,
Trong các vườn nho, tiếng hát ca sẽ không còn nữa, tiếng câu hò sẽ không còn nữa;
Tại các bồn ép nho, chẳng còn ai sẽ đạp nho để làm rượu,
Vì Ta sẽ làm cho tiếng hát hò ngưng bặt.
11 Do đó lòng Ta thổn thức vì Mô-áp, như hạc cầm trỗi điệu bi thương,
Dạ Ta bồi hồi đau xót vì cớ Ki-rơ Hê-re.
12 Lúc ấy dù Mô-áp có lên các đền miếu xây cất trên các nơi cao mà mỏi mòn quỳ lạy cầu xin các thần của nó,
Dù nó có lên các thánh điện của các thần tượng ấy mà cúng bái kêu cầu,
Tất cả đều sẽ luống công vô ích.

13 Ðó là lời của Chúa đã phán về Mô-áp từ xưa. 14 Nhưng bây giờ Chúa lại phán, “Trong vòng ba năm nữa, giống như số năm thuê một công nhân lao động, hào quang của Mô-áp, luôn với số dân đông đảo ấy, sẽ bị tiêu tan. Số người còn sót lại sẽ rất ít và sẽ không ra gì.”

I Phi-rơ 4

Ðời Sống Ðược Biến Ðổi

Vậy vì Ðấng Christ đã chịu khổ trong xác thịt, anh chị em cũng hãy lấy tư tưởng ấy làm khí giới để trang bị cho mình; vì ai chịu khổ trong xác thịt thì đoạn tuyệt với tội lỗi, để hễ còn sống trong xác thịt bao lâu thì không sống theo dục vọng con người nhưng theo ý muốn Ðức Chúa Trời bấy lâu. Vì trước kia anh chị em đã sống theo dục vọng như các dân ngoại đủ rồi, ấy là sống phóng đãng, đam mê nhục dục, say sưa, chè chén, nhậu nhẹt, và thờ các thần tượng gớm ghiếc. Bây giờ họ lấy làm lạ vì anh chị em không nhập cuộc với họ trong nếp sống truy hoan cuồng loạn như thế nữa, nên họ gièm chê anh chị em. Nhưng họ sẽ phải khai trình với Ðấng sẵn sàng xét đoán kẻ sống và kẻ chết. Vì lý do đó Tin Mừng được giảng ngay cả cho những người chết, để dù họ có thể bị xét đoán theo loài người về phần xác, thì họ cũng có thể sống theo Ðức Chúa Trời về phần linh.

Quản Lý Ân Tứ của Ðức Chúa Trời

Sự cuối cùng của muôn vật đã gần, vậy hãy minh mẫn và tỉnh táo để cầu nguyện. Trước hết hãy yêu thương nhau nhiệt thành, vì tình yêu che lấp vô số tội lỗi. Hãy tiếp đãi nhau niềm nở, không than phiền. 10 Mỗi người hãy lấy ơn mình đã nhận mà phục vụ lẫn nhau, như những người quản lý giỏi, khéo sử dụng các ân tứ của Ðức Chúa Trời. 11 Ai giảng dạy, hãy giảng dạy như rao truyền sấm ngôn của Ðức Chúa Trời; ai phục vụ, hãy lấy hết sức Ðức Chúa Trời ban cho mà phục vụ, để trong mọi sự Ðức Chúa Trời được vinh hiển qua Ðức Chúa Jesus Christ. Nguyện vinh hiển và quyền bính đều thuộc về Ngài đời đời vô cùng. A-men.

Chịu Khổ vì Theo Chúa

12 Thưa anh chị em yêu dấu, khi lửa thử thách đến với anh chị em, đừng ngạc nhiên và đừng xem đó như việc bất thường; 13 nhưng hãy vui mừng vì được dự phần những đau khổ của Ðấng Christ, để khi vinh hiển của Ngài lộ ra, anh chị em cũng có thể vui mừng hết mực. 14 Nếu anh chị em bị sỉ nhục vì danh Ðấng Christ, anh chị em được phước, vì Ðức Thánh Linh của sự vinh hiển và của Ðức Chúa Trời đang ngự trên anh chị em. 15 Ðừng ai trong anh chị em chịu khổ như kẻ sát nhân, hoặc kẻ trộm cắp, hoặc kẻ làm điều ác, hoặc kẻ xen vào việc người khác; 16 nhưng nếu có ai chịu khổ vì làm người của Ðấng Christ,[a] thì đừng hổ thẹn, nhưng hãy tôn vinh Ðức Chúa Trời vì được mang danh ấy. 17 Vì thời điểm đã đến để bắt đầu cuộc phán xét từ nhà Ðức Chúa Trời, và nếu chúng ta bị phán xét trước nhất, thì số phận cuối cùng của những người không vâng phục Tin Mừng của Ðức Chúa Trời sẽ ra sao? 18 

“Nếu những người công chính mà còn khó được cứu,
Thì những kẻ gian ác và những kẻ tội lỗi sẽ như thế nào?”Châm 11:31 LXX

19 Vậy hỡi những ai chịu khổ theo ý muốn Ðức Chúa Trời, hãy cứ phó thác linh hồn mình cho Ðấng Tạo Hóa thành tín và tiếp tục làm điều lành.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang