M’Cheyne Bible Reading Plan
9 Tên tuổi của tất cả dân Ít-ra-en đều được ghi trong gia phổ của mỗi gia đình, và tất cả gia phổ đều được ghi trong lịch sử các vua Ít-ra-en.
Dân cư Giê-ru-sa-lem
Dân Giu-đa bị bắt và đày sang Ba-by-lôn vì họ không trung thành cùng Thượng Đế. 2 Những người đầu tiên hồi hương và cư ngụ trong đất và thị trấn mình là một số người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, người Lê-vi, và các đầy tớ phục vụ trong đền thờ.
3 Những người từ chi tộc Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-xe cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem. Sau đây là danh sách những người ấy.
4 Có U-thai con Am-mi-hút. Am-mi-hút là con trai Ôm-ri. Ôm-ri con Im-ri. Im-ri con Ba-ni. Ba-ni là một trong các con cháu của Phê-rê. Phê-rê con Giu-đa.
5 Trong số những người Si-lô-nít có A-sai-gia và các con trai ông. A-sa-gia là con trưởng nam trong gia đình.
6 Trong dân Xê-ra-hít có Giê-u-ên và các thân nhân khác của Xê-ra. Tổng cộng sáu trăm chín mươi người tất cả.
7 Trong chi tộc Bên-gia-min có Xa-lu con Mê-su-lam. Mê-su-lam con Hô-đa-via, Hô-đa-via con Hát-sê-nua. 8 Cũng có Íp-nê-a, con Giê-hô-ram và Ê-la, con U-xi. U-xi là con Mích-ri. Có Mê-su-lam con Sê-pha-tia. Sê-pha-tia con Ru-ên, và Ru-ên là con Íp-ni-gia. 9 Gia phổ của Bên-gia-min ghi chín trăm năm mươi sáu người cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem. Tất cả đều là trưởng gia đình.
10 Trong số các thầy tế lễ có Giê-đi-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 A-xa-ria con Hinh-kia. Hinh-kia con Mê-su-lam, Mê-su-lam con Xa-đốc, Xa-đốc con Mê-rai-ốt. Mê-rai-ốt con A-hi-túp. A-hi-túp là viên chức lo cho đền thờ của Thượng Đế. 12 Ngoài ra có A-đai-gia con Giê-hô-ram. Giê-hô-ram con Bách-sua, Bách-sua con Manh-ki-gia. Có Ma-a-sai con A-đi-ên. A-đi-ên con Gia-xê-ra. Gia-xê-ra con Mê-su-lam. Mê-su-lam con Mê-si-lê-mít, Mê-si-lê-mít con Im-mê.
13 Tính luôn các thân nhân có tất cả một ngàn bảy trăm sáu mươi thầy tế lễ. Họ là trưởng gia đình sẵn sàng làm công tác trong đền thờ Thượng Đế.
14 Trong số các người Lê-vi có Sê-mai-gia con Hát-súp. Hát-súp con A-ri-cam, A-ri-cam con Ha-sa-bai-gia. Ha-sa-bai-gia thuộc gia đình Mê-ra-ri. 15 Có Bác-ba-ka, Hê-rết, Ga-lanh, và Ma-ta-nia, con Mi-ca. Mi-ca là con Xích-ri, Xích-ri con A-sáp. 16 Cũng có Áp-đia con Sê-mai-gia. Sê-mai-gia con Ga-lanh, Ga-lanh con Giê-đu-thun. Ngoài ra có Bê-rê-kia con A-sa. A-sa con Ên-ca-na cư ngụ trong các làng của người Nê-tô-pha-thít.
17 Trong số các người giữ cửa có Sa-lum, Ác-cúp, Tanh-môn, A-hi-man và các thân nhân họ. Sa-lum là lãnh tụ của họ. 18 Cho đến thời ấy, những người giữ cửa từ chi tộc Lê-vi vẫn được đứng phía Đông cổng vào cung vua. 19 Sa-lum là con Cô-rê. Cô-rê con Ê-bi-a-sáp, Ê-bi-a-sáp con Cô-ra. Sa-lum và các thân nhân ông từ gia đình Cô-ra là những người giữ cửa và lo việc canh cửa đền thờ. Các tổ tiên của họ cũng từng lo việc canh giữ cửa vào đền thờ CHÚA. 20 Trước kia Phi-nê-ha, con trai Ê-lê-a-sa chịu trách nhiệm về các người giữ cửa đã từng được CHÚA giúp đỡ. 21 Xa-cha-ria con Mê-sê-lê-mia là người giữ cửa Lều Họp.
22 Tất cả có hai trăm mười hai người được chọn giữ cửa, tên tuổi của những người nầy được ghi trong gia phổ trong làng mạc họ. Đa-vít và Sa-mu-ên, đấng tiên kiến chọn họ là vì họ đáng tin cậy. 23 Những người giữ cửa và con cháu họ phải canh gác các cửa của đền thờ CHÚA. (Đền thờ thay thế cho Lều Thánh.) 24 Bốn phía của đền thờ: đông tây nam bắc đều có người giữ cửa. 25 Thân nhân của các người giữ cửa cư ngụ trong làng mạc thỉnh thoảng lên giúp đỡ họ. Mỗi khi lên thì giúp họ trong bảy ngày.
26 Vì họ đáng tin cậy cho nên có bốn người giữ cửa được cử làm trưởng của tất cả toán giữ cửa. Họ là người Lê-vi và chịu trách nhiệm về các phòng và kho báu trong đền thờ Thượng Đế. 27 Họ thức suốt đêm canh giữ đền thờ Thượng Đế, và mỗi sáng sớm thì mở các cửa ra.
28 Một số người giữ cửa chịu trách nhiệm về các vật dụng dùng trong việc thờ phụng trong đền thờ. Họ kiểm kê các vật dụng nầy khi có người lấy ra hay mang trả lại. 29 Các người giữ cửa khác được chọn để chăm sóc bàn ghế và các vật dụng Nơi Thánh. Họ cũng lo về bột, rượu, dầu, trầm hương, hương liệu [a], 30 nhưng một số thầy tế lễ lo việc hòa chế các hương liệu.
31 Có một người Lê-vi tên Mát-ti-thia rất đáng tin cậy và lo việc nướng bánh kẹp dùng trong của lễ. Ông ta là con trưởng nam của Sa-lum thuộc gia đình Cô-ra. 32 Một số người giữ cửa từ gia đình Cô-hát có nhiệm vụ chuẩn bị loại bánh đặc biệt [b] để lên bàn mỗi ngày Sa-bát.
33 Một số người Lê-vi là nhạc sĩ trong đền thờ. Các trưởng gia đình nầy cư ngụ trong các phòng của đền thờ. Vì họ phải trực ngày và đêm cho nên họ không lo việc gì khác trong đền thờ.
34 Đó là các lãnh tụ của các gia đình Lê-vi. Tên tuổi họ được ghi trong gia phổ và họ cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem.
Gia phổ vua Sau-lơ
35 Giê-i-ên cư ngụ trong thị trấn Ghi-bê-ôn nơi ông làm lãnh tụ. Vợ ông tên Ma-a-ca. 36 Con trưởng nam của Giê-i-ên là Áp-đôn. Các con trai khác là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37 Ghê-đo, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lốt. 38 Mích-lốt sinh Si-mê-am. Gia đình Giê-i-ên sống gần các thân nhân họ ở Giê-ru-sa-lem.
39 Nê-rơ sinh Kích. Kích sinh Sau-lơ. Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ết-Ba-anh.
40 Con trai Giô-na-than là Mê-ríp Ba-anh. Mê-ríp Ba-anh sinh Mi-ca.
41 Các con trai Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê, và A-cha. 42 A-cha sinh Gia-đa [c]. Gia-đa sinh A-lê-mết, Ạc-ma-vết, và Xim-ri. Xim-ri sinh Mô-xa. 43 Mô-xa sinh Bi-nê-a. Rê-phai-gia là con Bi-nê-a. Ê-lê-a-xa là con Rê-phai-gia, và A-xên là con Ê-lê-a-xa.
44 A-xên có sáu con trai: A-ri-cam, Bô-kê-ru, Ích-ma-ên, Sê-rai-gia, Áp-đia, và Ha-nan. Đó là các con trai A-xên.
Cái chết của vua Sau-lơ
10 Quân Phi-li-tin kéo ra đánh dân Ít-ra-en, dân Ít-ra-en bỏ chạy. Nhiều người Ít-ra-en bị giết trên núi Ghinh-bô-a. 2 Quân Phi-li-tin tấn công Sau-lơ và các con trai ông tới tấp, giết Giô-na-than, A-bi-na-đáp và Manh-ki-sua. 3 Trận đánh thật dữ dội quanh Sau-lơ, các lính cầm cung bắn trúng làm ông bị thương.
4 Sau-lơ liền bảo viên sĩ quan vác vũ khí mình rằng, “Hãy rút gươm ngươi ra đâm ta đi nếu không bọn Phi-li-tin không chịu cắt dương bì [d] kia sẽ đến giết ta.”
Nhưng viên sĩ quan không dám vì sợ. Nên Sau-lơ rút gươm mình và đè người lên nó. 5 Khi viên sĩ quan thấy Sau-lơ chết nên cũng đè người lên gươm mình và chết theo. 6 Như thế Sau-lơ và ba con trai ông đều chết; cả nhà đều cùng chết.
7 Khi người Ít-ra-en đang sống trong thung lũng thấy quân đội mình bỏ chạy, Sau-lơ và các con ông chết thì họ cũng bỏ thành chạy trốn. Người Phi-li-tin liền đến định cư trong các thành đó.
8 Hôm sau quân Phi-li-tin đến lột các xác chết thì thấy Sau-lơ và các con ông đã chết trên núi Ghinh-bô-a. 9 Quân Phi-li-tin lột binh phục khỏi xác Sau-lơ và cắt đầu ông mang đi cùng với áo giáp. Rồi chúng sai sứ đi khắp xứ thông báo tin tức cho thần tượng chúng và toàn dân. 10 Người Phi-li-tin để áo giáp của Sau-lơ trong đền thờ của thần chúng và treo đầu ông trong đền thờ thần Đa-gôn.
11 Cả dân Gia-be Ghi-lê-át nghe việc quân Phi-li-tin làm cho Sau-lơ. 12 Vì thế, những người gan dạ trong Gia-be liền xuống lấy xác Sau-lơ và các con trai ông mang về Gia-be. Họ chôn xương cốt những người đó dưới các cây rậm ở Gia-be. Sau đó dân Gia-be cữ ăn trong bảy ngày.
13 Sau-lơ chết vì không trung thành với CHÚA và không vâng lời Ngài. Thậm chí ông đi cầu hỏi đồng bóng 14 thay vì cầu hỏi CHÚA. Vì thế CHÚA giết Sau-lơ và trao nước cho Đa-vít, con trai Gie-xê.
Noi gương Chúa Giê-xu
12 Những người ấy vây quanh chúng ta và chứng minh ý nghĩa của đức tin qua đời sống họ. Cho nên chúng ta hãy tham dự cuộc chạy đua trước mặt chúng ta, đừng bỏ cuộc. Chúng ta hãy dẹp bỏ khỏi đời sống những chướng ngại vật và tội lỗi dễ trì kéo chúng ta lại. 2 Chỉ nhìn xem Chúa Giê-xu, Đấng khởi đầu và làm toàn thiện đức tin chúng ta. Ngài chịu chết trên cây thập tự. Ngài chấp nhận và xem thường sự sỉ nhục vì nhắm vào niềm vui Thượng Đế đã đặt trước mặt mình. Hiện nay Ngài đang ngồi bên phải ngôi Thượng Đế. 3 Hãy nhìn gương Chúa Giê-xu là Đấng chịu đựng những sự ngược đãi của kẻ có tội để chúng ta không mỏi mệt và chán nản.
Thượng Đế như Cha
4 Anh chị em đang chiến đấu chống tội lỗi nhưng những cuộc chiến đấu ấy chưa khiến anh chị em phải thiệt mạng. 5 Anh chị em đã quên lời giục giã kêu gọi anh chị em là con:
“Con ơi, đừng xem thường sự sửa trị của Chúa, và đừng bỏ cuộc khi Ngài sửa dạy.
6 Vì Chúa sửa trị kẻ Ngài yêu,
và Ngài sửa phạt người nào Ngài nhận làm con.” (A)
7 Cho nên khi chịu khổ hãy bền lòng vì những điều ấy chẳng khác nào sự sửa trị của người cha. Thượng Đế xem anh chị em như con cái Ngài. Con nào mà không bị cha răn dạy? 8 Nếu anh chị em không bao giờ bị cha sửa dạy thì anh chị em chưa phải là con thật, không thuộc gia đình Thượng Đế. 9 Tất cả chúng ta đều có cha trên đất nầy sửa dạy chúng ta. Chúng ta kính sợ cha mình. Chúng ta lại càng phải chấp nhận kỷ luật của Cha về phần tâm linh để được sự sống. 10 Cha trên đất sửa trị chúng ta trong một thời gian ngắn theo cách mà người cha cho là tốt nhất. Nhưng sự sửa trị của Thượng Đế là để giúp chúng ta trở nên thánh thiện như Ngài. 11 Lúc đang bị sửa trị thì chúng ta không thích vì đau đớn, nhưng về sau, khi đã học được ý nghĩa của sự sửa trị ấy rồi, thì chúng ta sẽ được bình an vì bắt đầu sống phải cách.
Hãy cẩn thận về nếp sống của mình
12 Anh chị em đã trở nên yếu đuối, hãy làm mình thêm mạnh trở lại. 13 Hãy sống cho phải cách để được cứu và để cho sự yếu đuối anh chị em không khiến mình bị chết mất.
14 Hãy sống cuộc đời thanh sạch và hòa thuận với mọi người. Chẳng ai có thể thấy Chúa được nếu đời sống không thánh thiện. 15 Hãy thận trọng vì e rằng có người không nhận được ân phúc của Thượng Đế. Đừng ai trở thành nguyên nhân gây rối giữa vòng anh chị em. Một người như thế có thể làm hư hỏng nhiều người trong anh chị em. 16 Hãy thận trọng, đừng ai phạm tội nhục dục, hoặc như Ê-sau là người không bao giờ nghĩ đến Thượng Đế. Với địa vị con trưởng, đáng lý ra Ê-sau được hưởng trọn tài sản của cha mình, nhưng chỉ vì một bữa ăn mà ông bán hết mọi thứ. 17 Anh chị em còn nhớ là sau khi Ê-sau làm như thế, ông muốn cha mình chúc phước nhưng bị cha từ chối. Ê-sau hối hận thì đã quá trễ mặc dù ông ao ước phúc lành đó đến nỗi phát khóc.
18 Anh chị em chưa đến gần hòn núi có thể rờ được và đang bốc cháy, hoặc đến chỗ tăm tối, buồn bã và giông bão. 19 Anh chị em chưa đến gần tiếng kèn thổi hoặc tiếng nói mà dân Ít-ra-en nghe và nài nỉ xin đừng nghe thêm tiếng nào nữa. 20 Họ không muốn nghe lệnh cấm: “Bất cứ vật gì dù là súc vật đi nữa, đụng đến núi sẽ bị ném đá chết.” [a] 21 Điều mắt họ thấy, kinh hoàng đến nỗi Mô-se thú nhận, “Ta hết sức run sợ.” [b]
22 Nhưng anh chị em đã đến gần núi Xi-ôn, thành của Thượng Đế hằng sống, Giê-ru-sa-lem [c] trên trời. Anh chị em đã đến nơi hàng ngàn thiên sứ hân hoan nhóm họp. 23 Anh chị em đã đến nơi gặp gỡ của các con đầu lòng [d] của Thượng Đế được ghi tên trên thiên đàng. Anh chị em đã đến cùng Thượng Đế, quan án của mọi người, và đến cùng các thần linh của những người tốt đã trở nên toàn thiện. 24 Anh chị em đã đến cùng Chúa Giê-xu, Đấng mang giao ước từ Thượng Đế đến cho dân Ngài, và anh chị em đã đến cùng huyết rưới [e] ra, huyết mang theo một ý nghĩa tốt hơn huyết A-bên.
25 Cho nên hãy thận trọng, đừng bỏ ngoài tai lời Thượng Đế phán. Những kẻ khác không chịu nghe lời Ngài thì Ngài đã cảnh cáo họ trên đất, họ không thoát khỏi trừng phạt. Cho nên nếu chúng ta không nghe lời Ngài khi Ngài cảnh cáo chúng ta từ thiên đàng thì số phận chúng ta còn bi đát đến thế nào nữa. 26 Trước kia khi Ngài phán, tiếng phán Ngài làm rung chuyển đất. Nay thì Ngài hứa, “Một lần nữa ta sẽ không những làm rung chuyển đất mà còn rung chuyển cả trời nữa.” [f] 27 Từ ngữ, “một lần nữa” cho chúng ta thấy những gì được dựng nên—tức những vật có thể bị rung chuyển—đều sẽ bị tiêu hủy. Chỉ những gì không bị rung chuyển mới còn lại thôi.
28 Cho nên chúng ta hãy cảm tạ vì chúng ta có một quốc gia vững bền, không lay chuyển. Chúng ta hãy lấy lòng kính sợ mà thờ phụng Thượng Đế cho đẹp lòng Ngài, 29 vì Thượng Đế của chúng ta là ngọn lửa đốt cháy mọi vật.
Ít-ra-en sẽ bị tiêu diệt
6 Khốn cho những kẻ sống an cư trong Giê-ru-sa-lem,
những kẻ cảm thấy bình yên trên núi Xa-ma-ri.
Ngươi nghĩ mình là kẻ có chức trọng quyền cao
của quốc gia hùng cường nhất trên thế giới;
Dân Ít-ra-en đến cầu cạnh ngươi giúp đỡ,
2 Hãy đi nhìn thành Canh-nê,
từ đó đi đến thành lớn Ha-mát;
rồi đi xuống Gát [a] của dân Phi-li-tin.
Ngươi không khá hơn các nước đó đâu.
Xứ ngươi cũng chẳng lớn hơn xứ chúng.
3 Ngươi trì hoãn ngày trừng phạt,
nhưng rút ngắn lại cái ngày
mà ngươi có thể làm hại kẻ khác.
4 Ngươi nằm trên giường cẩn ngà voi
và duỗi người trên ghế dài mình.
Ngươi ăn thịt chiên con mềm,
và gia súc mập béo.
5 Ngươi sáng tác bài ca cho đờn cầm,
và sử dụng nhạc khí [b] như Đa-vít làm.
6 Ngươi uống rượu như hũ chìm,
và dùng nước hoa thượng hạng.
Nhưng ngươi không than khóc
về cảnh điêu tàn của Ít-ra-en,
7 nên ngươi sẽ là những kẻ đầu tiên bị bắt làm tù binh.
Các ngươi đang nằm duỗi dài trên ghế,
nhưng thời kỳ thoải mái ấy của ngươi sẽ chấm dứt.
8 CHÚA là Thượng-Đế đã hứa điều đó,
CHÚA Toàn Năng phán:
“Ta ghét lòng kiêu căng của Ít-ra-en,
ta ghê tởm những toà nhà kiên cố của chúng,
nên ta sẽ để cho kẻ thù chiếm lấy thành
và cướp bóc mọi thứ trong đó.
9 Lúc đó chỉ sẽ còn có mười người sống sót trong một nhà, nhưng rồi cũng chết. 10 Khi thân nhân đến lấy xác mang ra ngoài, người nầy sẽ gọi hỏi người kia, ‘Anh còn có xác chết nào nữa không?’
Người kia sẽ đáp, ‘Không …’ [c]
Rồi kẻ hỏi sẽ bảo, ‘Suỵt! Chúng ta không được nói đến danh CHÚA.’”
11 CHÚA truyền lệnh nầy;
nhà cửa to lớn sẽ bị đổ nát,
còn nhà nhỏ cũng tan tành.
12 Ngựa không phi trên tảng đá,
cũng không ai dùng bò cày đá cục.
Nhưng ngươi đã biến công bình ra thuốc độc;
biến lẽ phải ra mật đắng.
13 Ngươi mừng rỡ vì thành Lô Đê-ba [d] bị chiếm,
và ngươi bảo, “Chúng ta đã lấy sức mình
chiếm thành Cạc-na-im [e].”
14 CHÚA Toàn-Năng phán,
“Hỡi Ít-ra-en, ta sẽ mang đến
một dân nghịch ngươi để tạo khổ sở
cho dân ngươi từ Lê-bô Ha-Mát,
ở miền Bắc cho đến thung lũng của Biển Chết ở miền Nam.”
Ma-ri thăm Ê-li-xa-bét
39 Ma-ri vội vã đi tới một thị trấn trong vùng đồi núi miền Giu-đia. 40 Cô đến nhà Xa-cha-ri và chào Ê-li-xa-bét. 41 Khi Ê-li-xa-bét nghe tiếng Ma-ri chào thì bào thai trong bụng bà nhảy lên và Ê-li-xa-bét được đầy Thánh Linh. 42 Bà kêu lên, “Thượng Đế đã ban phúc cho chị nhiều hơn các phụ nữ khác và Ngài cũng ban phúc cho hài nhi chị sắp sinh ra. 43 Tại sao tôi được diễm phúc nầy, là mẹ của Chúa tôi đến thăm tôi? 44 Khi tôi vừa nghe tiếng của chị, thì bào thai trong bụng tôi nhảy mừng. 45 Chị được ân phúc, vì chị tin rằng điều gì Chúa nói cùng với chị sẽ thành tựu.”
Ma-ri ca ngợi Thượng Đế
46 Rồi Ma-ri nói rằng,
“Linh hồn tôi ca tụng Chúa;
47 Lòng tôi vui mừng trong Thượng Đế là Chúa Cứu Thế của tôi,
48 vì Ngài đoái đến đầy tớ gái hèn mọn của Ngài.
Từ nay về sau mọi người sẽ cho tôi là người có phúc,
49 vì Đấng Toàn Năng đã làm những điều kỳ diệu cho tôi.
Danh Ngài là Thánh.
50 Thượng Đế sẽ tỏ lòng nhân từ của Ngài
cho những người thờ kính và phục vụ Ngài đến mãi mãi.
51 Ngài đã làm những việc lớn lao do quyền năng của Ngài.
Ngài phân tán những kẻ kiêu ngạo và kẻ tự đề cao mình.
52 Ngài hạ bệ các kẻ cầm quyền khỏi ngôi họ
và nâng những kẻ khiêm nhường lên.
53 Ngài cho những kẻ đói đầy đủ thức ăn ngon,
và đuổi những kẻ giàu đi ra tay không.
54 Ngài giúp đỡ tôi tớ Ngài là dân Ít-ra-en,
và không quên tỏ ra lòng nhân từ của Ngài đối với họ
55 như Ngài đã hứa cùng tổ tiên của chúng ta,
cùng Áp-ra-ham và con cháu người đến mãi mãi.”
56 Ma-ri ở chơi với Ê-li-xa-bét khoảng ba tháng rồi trở về nhà.
Giăng Báp-tít ra đời
57 Đến kỳ sinh nở, Ê-li-xa-bét sinh ra một bé trai. 58 Láng giềng và bà con đến chung vui vì nghe Chúa đã tỏ lòng nhân từ đối với bà.
59 Khi em bé được tám ngày, thì người ta đến làm phép cắt dương bì cho em. Họ định đặt tên em là Xa-cha-ri theo tên cha, 60 nhưng bà mẹ bảo, “Không! Phải đặt tên nó là Giăng.”
61 Họ bảo Ê-li-xa-bét, “Nhưng trong họ hàng bà không ai có tên ấy.” 62 Họ liền ra dấu cho cha đứa bé hỏi xem ông muốn đặt tên gì.
63 Xa-cha-ri xin tấm bảng nhỏ rồi viết lên, “Tên nó là Giăng.” Mọi người đều kinh ngạc. 64 Ngay lúc ấy Xa-cha-ri nói được trở lại và ca tụng Thượng Đế. 65 Hàng xóm, láng giềng đâm ra lo sợ, còn dân chúng khắp vùng đồi núi Giu-đia không ngớt bàn tán về chuyện đó. 66 Những người nghe chuyện hỏi nhau rằng, “Em bé ấy lớn lên sẽ ra sao?” vì quyền năng của Chúa ở cùng cậu ấy.
Xa-cha-ri ca ngợi Thượng Đế
67 Bấy giờ Xa-cha-ri, cha của Giăng đầy Thánh Linh và nói tiên tri:
68 “Chúng ta hãy ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en,
vì Ngài đến cứu giúp dân Ngài và giải thoát họ.
69 Ngài đã cho chúng ta một Đấng Cứu Thế quyền năng,
xuất thân từ gia đình Đa-vít, tôi tớ Ngài.
70 Qua các nhà tiên tri thánh của Chúa đã sống từ ngàn xưa,
Ngài hứa sẽ hoàn thành điều ấy:
71 Ngài hứa sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù
và khỏi thế lực của những kẻ ghét chúng ta.
72 Ngài hứa sẽ tỏ lòng nhân từ cho cha ông chúng ta
và cam kết sẽ giữ lời hứa thánh của Ngài.
73 Ngài hứa với Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta
74 rằng Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của kẻ thù
để chúng ta có thể phục vụ Ngài mà không sợ hãi,
75 để chúng ta trở nên thánh thiện và nhân đức
trước mặt Ngài suốt đời chúng ta.
76 Bây giờ, con ơi, con sẽ được gọi là nhà tiên tri của Đấng Tối Cao.
Con sẽ đi trước để dọn đường cho Chúa.
77 Con sẽ khiến cho dân Ngài biết là họ sẽ được cứu,
khi tội họ được xóa hết.
78 Do lòng nhân từ thương xót của Thượng Đế,
một bình minh mới [a] từ thiên đàng sẽ chiếu trên chúng ta.
79 Ánh sáng sẽ chiếu trên những kẻ sống trong tăm tối,
ở dưới bóng chết, và dẫn chúng ta vào lối đi hòa bình.”
80 Đứa trẻ lớn lên, tinh thần thêm mạnh mẽ. Giăng sống trong đồng hoang cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center