Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
II Sử Ký 6:12-42

Sa-lô-môn Cầu Nguyện Cung Hiến Ðền Thờ

(1 Vua 6:22-51)

12 Bấy giờ ông đứng trước bàn thờ Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, và đưa hai tay lên trời. 13 Số là Sa-lô-môn đã làm một bục bằng đồng, chiều ngang hai mét rưỡi, chiều dọc hai mét rưỡi, và chiều cao bảy tấc rưỡi, và đặt bục đó ở giữa sân. Ông đứng trên bục ấy; rồi trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên ông quỳ xuống, đưa hai tay lên trời, 14 và cầu nguyện rằng:

“Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay ở dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16 Vậy bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17 Vì vậy, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với Ða-vít tôi tớ Ngài.

18 Nhưng Ðức Chúa Trời có ở với người phàm trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài thay, huống chi Ðền Thờ con xây cất cho Ngài đây. 19 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài. 20 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ nầy, nơi Ngài phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 21 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.

22 Khi có ai phạm tội đối với người khác, và người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ nầy, 23 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.

24 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài và bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 25 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho họ và cho tổ tiên họ.

26 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất, vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 27 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài, xin chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi, và xin ban mưa xuống xứ sở Ngài ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.

28 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 29 nhưng có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ, đưa tay ra hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện và nài xin, 30 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 31 hầu họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong đường lối Ngài trọn đời của họ, trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.

32 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện, 33 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi điều người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.

34 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi họ hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 35 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.

36 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem đi lưu đày biệt xứ, bất kể xa hay gần; 37 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày, họ biết tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, mà rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 38 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ, và xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài.

40 Bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của con, cầu xin Ngài luôn để mắt nhìn và để tai nghe những lời cầu nguyện dâng lên từ nơi nầy.

41 Vậy bây giờ, lạy Chúa Hằng Hữu,[a] xin trỗi dậy và ngự đến nơi nghỉ ngơi của Ngài,
Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài.
Lạy Chúa Hằng Hữu, nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy ơn cứu rỗi,
Nguyện những người trung tín tin thờ Ngài được vui vẻ vì phước hạnh Ngài ban.
42 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng loại bỏ người được xức dầu của Ngài,
Xin nhớ lại tình thương vô đối Ngài dành cho Ða-vít đầy tớ Ngài.”

I Giăng 5

Chiến Thắng Thế Gian

Ai tin rằng Ðức Chúa Jesus là Ðấng Christ thì được sinh ra bởi Ðức Chúa Trời. Ai yêu Ðấng sinh ra Con cũng yêu Con do Ngài sinh ra. Bởi điều này chúng ta biết rằng chúng ta yêu con cái Ðức Chúa Trời: ấy là khi chúng ta yêu kính Ðức Chúa Trời và vâng giữ các điều răn Ngài. Vì yêu kính Ðức Chúa Trời là vâng giữ các điều răn Ngài; và các điều răn Ngài không phải là nặng nề. Vì ai được sinh ra bởi Ðức Chúa Trời đều chiến thắng thế gian, và đây là bí quyết đắc thắng để chiến thắng thế gian: đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không là người tin rằng Ðức Chúa Jesus là Con Ðức Chúa Trời?

Lời Chứng về Ðấng Christ

Chính Ngài, Ðức Chúa Jesus Christ, đã đến bởi nước và huyết, không phải chỉ bởi nước, nhưng bởi nước và huyết. Chính Ðức Thánh Linh là Ðấng làm chứng, vì Ðức Thánh Linh là chân lý.

Có ba nguồn làm chứng: Ðức Thánh Linh, nước, và huyết; và cả ba đều ăn khớp về một việc. Nếu chúng ta chấp nhận lời chứng của người phàm, thì lời chứng của Ðức Chúa Trời cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Ðức Chúa Trời, và Ngài làm chứng về Con Ngài.

10 Ai tin Con Ðức Chúa Trời thì có lời chứng đó trong lòng; ai không tin Ðức Chúa Trời thì mặc nhiên cho Ngài là kẻ nói dối, vì đã không tin lời chứng của Ðức Chúa Trời đã làm chứng về Con Ngài. 11 Ðây là lời chứng: Ðức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. 12 Ai có Ðức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Ðức Chúa Trời thì không có sự sống.

Sự Sống Ðời Ðời

13 Tôi viết những điều này cho anh chị em, những người tin vào danh Con Ðức Chúa Trời, để anh chị em biết rằng anh chị em có sự sống đời đời.

Vững Tâm Cầu Nguyện

14 Ðây là sự vững tâm chúng ta có trước thánh nhan Ngài: đó là nếu chúng ta theo ý muốn Ngài cầu xin điều chi thì Ngài nghe chúng ta. 15 Nếu chúng ta biết rằng Ngài nghe chúng ta bất cứ điều gì chúng ta cầu xin, thì chúng ta biết rằng chúng ta có những gì chúng ta đã cầu xin Ngài.

16 Nếu ai thấy anh chị em mình phạm một tội không đến nỗi chết, người ấy hãy cầu xin, Ngài sẽ ban cho người ấy được sống, tức là ban cho người phạm tội không đến nỗi chết. Có một tội đưa đến cái chết, và tôi không bảo anh chị em cầu xin cho điều đó. 17 Mọi sự bất chính đều là tội, nhưng cũng có tội không đến nỗi chết.

Lời Kết

18 Chúng ta biết rằng không ai được sinh ra bởi Ðức Chúa Trời lại cứ phạm tội, nhưng người được sinh ra bởi Ðức Chúa Trời thì Ngài bảo vệ, và kẻ ác không đụng đến người ấy được. 19 Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Ðức Chúa Trời, còn cả thế gian ở dưới quyền kẻ ác.

20 Chúng ta cũng biết rằng Con Ðức Chúa Trời đã đến và đã ban cho chúng ta tri thức, để chúng ta có thể biết Ðấng chân thật, và chúng ta ở trong Ngài là Ðấng chân thật, vì chúng ta ở trong Con Ngài là Ðức Chúa Jesus Christ. Chính Ngài là Ðức Chúa Trời chân thật và sự sống đời đời.

21 Hỡi các con thơ, hãy giữ mình khỏi các thần tượng. A-men.

Ha-ba-cúc 1

Ha-ba-cúc Than Phiền

Ðây là sứ điệp[a] mà Tiên Tri Ha-ba-cúc đã thấy:

Chúa ôi, con kêu van xin cứu giúp, nhưng Ngài chẳng đoái hoài gì tới con cho đến bao lâu nữa?
Con kêu cứu với Ngài rằng, “Bạo ngược!” nhưng sao Ngài chẳng giải cứu gì cả?
Tại sao Ngài bắt con phải nghe thấy những cảnh trái tai gai mắt thế nầy?
Hủy diệt và bạo ngược cứ diễn ra trước mắt con;
Tranh chấp và cãi vã cứ nổi lên liên tục.
Vì thế luật pháp trở nên lỏng lẻo, và công lý không bao giờ thắng thế.
Thật vậy, phường gian ác vây hãm người ngay lành;
Do đó các phán quyết của nhà cầm quyền đều lệch lạc.

Chúa Ðáp Lời: Dân Canh-đê Là Tai Họa Chúa Sai Ðến

“Hãy nhìn các nước và xem!
Hãy sững sờ! Hãy kinh ngạc!
Vì Ta sẽ làm một việc trong thời của các ngươi,
Nếu có ai thuật lại, các ngươi cũng không tin.
Vì này, Ta sẽ làm cho dân Canh-đê trở nên một dân hung dữ và bạo tàn;
Chúng sẽ tung hoành dọc ngang khắp đất;
Chúng sẽ chiếm lấy những nơi cư ngụ không phải là của chúng.
Nghe đến chúng, người ta hoảng kinh và sợ sệt;
Chúng tự quyền quyết định thế nào là công lý và chân giá trị.
Ngựa của chúng chạy nhanh hơn con báo;
Chúng dữ dằn hơn chó sói lúc hoàng hôn;
Các chiến mã của chúng xông pha khắp chốn.
Các kỵ binh của chúng đến từ xứ xa xăm,
Chúng lao tới nhanh như đại bàng bắt mồi.
Tất cả chúng đến để biểu dương sự tàn bạo;
Chúng cứ vểnh mặt nghênh ngang xông tới không ngừng;
Chúng bắt tù binh nhiều như cát.
10 Chúng chế nhạo các vua;
Chúng cười đùa các thủ lãnh;
Chúng khinh bỉ các thành trì kiên cố;
Chúng đắp ụ và đánh chiếm các thành ấy dễ dàng.
11 Chúng càn quét như một trận gió thổi qua,
Ðể rồi chúng mắc tội, vì đã coi sức mạnh của chúng là thần của chúng.”

Ha-ba-cúc Tiếp Tục Than Phiền

12 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ðấng Thánh của con,
Ðấng đã hiện hữu từ vô cực trong quá khứ,
Chẳng lẽ Ngài cho phép những điều ấy xảy ra để tiêu diệt chúng con sao?
Dĩ nhiên Ngài sẽ không để cho chúng con bị tiêu diệt.
Chúa ôi, Ngài đã cho chúng được như thế, để chúng thi hành sự đoán phạt của Ngài;
Vầng Ðá của chúng con ôi,
Ngài đã lập chúng như vậy, để chúng hình phạt chúng con.
13 Mắt Ngài quá tinh khiết, không thể nào nhìn thấy cảnh gian ác mà không làm gì cả;
Ngài không thể nào làm ngơ khi chứng kiến những tội ác cứ tiếp tục xảy ra.
Thế nhưng tại sao Ngài lại có thể bất động, đứng nhìn quân phản bội hại người,
Và cứ lặng yên khi kẻ ác ăn nuốt người ngay lành hơn nó như vậy?
14 Tại sao Ngài nỡ làm cho người ta ra như cá tôm dưới biển,
Như côn trùng bò lúc nhúc không có kẻ chỉ huy?
15 Kẻ thù quăng mồi ra nhử chúng;
Tất cả chúng bu lại và bị tóm trọn vào trong lưới;
Nó kéo mẻ lưới của nó vào và bắt hết chúng không sót một ai;
Do đó nó hân hoan và vui vẻ.
16 Vì vậy nó dâng các con vật hiến tế cho cái lưới của nó;
Nó dâng hương cho cái lưới kéo tay của nó;
Vì nhờ các lưới đó mà các bữa ăn của nó được thịnh soạn,
Và thức ăn của nó được dư dật.
17 Chẳng lẽ vì thế mà nó cứ được phép tung lưới ra bắt giết,
Và vung gươm lên tàn sát các dân khác không chút xót thương hay sao?

Lu-ca 20

Chất Vấn về Thẩm Quyền của Chúa

(Mat 21:23-27; Mác 11:27-33)

20 Một hôm đang khi Ngài giảng dạy cho dân trong đền thờ và rao giảng Tin Mừng, các trưởng tế, các thầy dạy giáo luật, và các trưởng lão đến gần Ngài và nói với Ngài, “Hãy nói cho chúng tôi biết, ông lấy thẩm quyền nào làm những điều này? Hay ai ban cho ông thẩm quyền ấy?”

Ngài trả lời và nói với họ, “Ta cũng hỏi các ngươi một câu, các ngươi hãy trả lời Ta: Phép báp-têm của Giăng đến từ trời hay đến từ người?”

Họ thảo luận với nhau và nói, “Nếu chúng ta nói ‘Từ trời,’ ông ta sẽ hỏi lại, ‘Thế tại sao các ngươi không tin ông ấy?’ Còn nếu chúng ta nói, ‘Từ người,’ thì toàn dân sẽ ném đá chúng ta, vì họ đều tin rằng Giăng là đấng tiên tri.” Vì thế họ trả lời rằng họ không biết phép báp-têm ấy đến từ đâu.

Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Ta cũng không nói cho các ngươi biết bởi thẩm quyền nào Ta làm những điều này.”

Những Tá Ðiền Gian Ác

(Mat 21:33-46; Mác 12:1-12)

Ngài bắt đầu kể cho dân ngụ ngôn này: “Một người kia trồng một vườn nho, thuê các tá điền canh tác, rồi đi phương xa một thời gian khá lâu. 10 Ðến mùa hái nho, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi của vườn nho. Nhưng các tá điền đánh người đầy tớ ấy, rồi đuổi người ấy về tay không. 11 Ông sai một đầy tớ khác đến, nhưng chúng cũng đánh người ấy, làm nhục người ấy, và đuổi người ấy về tay không. 12 Ông lại sai một đầy tớ thứ ba đến, nhưng chúng cũng đánh đầy tớ ấy trọng thương, rồi quăng người ấy ra ngoài vườn. 13 Bấy giờ người chủ của vườn nho nói, ‘Ta sẽ làm gì đây? Ta sẽ sai con trai yêu dấu của ta đến. Có lẽ họ sẽ kiêng nể nó.’ 14 Nhưng khi các tá điền thấy người con ấy, chúng nói với nhau, ‘Con thừa kế đây rồi. Chúng ta hãy giết nó, để sản nghiệp của nó có thể thuộc về chúng ta.’ 15 Thế là chúng đuổi cậu ấy ra ngoài vườn và giết cậu ấy. Vậy chủ vườn nho sẽ làm gì đối với bọn ấy? 16 Ông sẽ đến và tiêu diệt bọn tá điền ấy, rồi trao vườn nho cho những người khác canh tác.”

Khi họ nghe như vậy, họ nói, “Không bao giờ có chuyện như thế.”

17 Nhưng Ngài nhìn họ và nói, “Vậy câu Kinh Thánh này,

‘Tảng đá bị những thợ xây nhà loại ra đã trở thành tảng đá góc nhà’ Thi 118:22

có ý nghĩa gì? 18 Ai ngã nhằm đá ấy sẽ bị nát tan, còn đá ấy rơi trúng ai, kẻ đó sẽ bị nát thành bụi.”

19 Ngay giờ đó các thầy dạy giáo luật và các trưởng tế muốn ra tay bắt Ngài, nhưng họ sợ dân, vì họ biết Ngài kể ngụ ngôn đó để ám chỉ họ.

Chúa Giải Ðáp Việc Ðóng Thuế

(Mat 22:15-22; Mác 12:13-17)

20 Họ theo dõi Ngài và sai các mật thám giả làm người hiền lành đi theo Ngài, chờ nghe Ngài nói lỡ lời, để bắt nộp Ngài cho nhà cầm quyền và cho chính quyền của tổng trấn. 21 Họ hỏi Ngài rằng, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng cứ theo chân lý dạy dỗ đường lối của Ðức Chúa Trời. 22 Chúng ta có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?”

23 Nhưng Ngài nhìn thấy rõ lòng xảo quyệt của họ nên nói với họ, 24 “Hãy cho Ta xem một đồng tiền. [a] Hình ảnh và danh hiệu này của ai?”

Họ đáp, “Của Sê-sa.”

25 Ngài phán, “Hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa, và hãy trả cho Ðức Chúa Trời những gì của Ðức Chúa Trời.”

26 Trước mặt mọi người họ không thể bắt bẻ một lời nào của Ngài. Họ sững sờ trước câu trả lời của Ngài và im miệng.

Sự Sống Lại của Người Chết

(Mat 22:23-33; Mác 12:18-27)

27 Bấy giờ có mấy người Sa-đu-sê, những người cho rằng không có sự sống lại, đến gặp Ngài và hỏi 28 rằng, “Thưa Thầy, Môi-se đã viết cho chúng ta rằng, nếu anh hay em trai của một người có vợ rồi qua đời mà không con nối dõi thì em trai hay anh của người đó phải lấy người vợ góa ấy để lưu truyền dòng giống cho anh hay em mình. 29 Bây giờ có bảy anh em. Người thứ nhất lấy vợ rồi chết, không con; 30 người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đều lấy người vợ góa ấy. Cứ thế bảy anh em đều lấy người đàn bà ấy và đều chết, không con nối dõi. 32 Cuối cùng người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai? Vì cả bảy anh em đều đã lấy bà làm vợ.”

34 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Con cái ở đời này cưới vợ gả chồng, 35 nhưng những ai được coi là xứng đáng để hưởng phước của cõi đời đời và sống lại từ cõi chết thì khi ấy sẽ không cưới không gả nữa. 36 Vì họ không thể chết nữa, bởi họ sẽ giống như các thiên sứ và là con cái Ðức Chúa Trời, vì họ là con cái của sự sống lại. 37 Còn về sự sống lại của người chết, Môi-se cũng đã cho thấy điều ấy trong đoạn kinh văn về bụi gai cháy khi ông gọi Chúa là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của I-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp. 38 Ðiều đó có nghĩa rằng Ðức Chúa Trời không phải là Ðức Chúa Trời của những kẻ chết, nhưng của những người sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống.”

39 Nghe vậy mấy thầy dạy giáo luật nói, “Thưa Thầy, Thầy giải đáp hay quá!” 40 Từ đó họ không dám chất vấn Ngài điều gì nữa.

Liên Hệ Giữa Chúa và Ða-vít

(Mat 22:41-46; Mác 12:35-37)

41 Bấy giờ Ngài hỏi họ, “Làm thể nào người ta có thể nói Ðấng Christ là Con của Ða-vít, 42 trong khi chính Ða-vít đã nói trong Thánh Thi,

‘Chúa phán với Chúa của tôi,
“Hãy ngồi bên phải Ta,
43 Cho đến khi Ta đặt những kẻ thù của Con làm bệ chân Con.”’ Thi 110:1

44 Vậy Ða-vít đã gọi Ngài là ‘Chúa,’ thì làm thể nào Ngài là con ông ấy?”

Chúa Trách Các Thầy Dạy Giáo Luật

(Mat 23:1-36; Mác 12:38-40)

45 Trong khi mọi người đang lắng nghe, Ngài nói với các môn đồ Ngài, 46 “Các ngươi hãy coi chừng các thầy dạy giáo luật, những người ưa dạo quanh trong chiếc áo dài lụng thụng, muốn được chào hỏi kính cẩn ở giữa chợ, luôn dành những chỗ ngồi tôn trọng nhất trong các hội đường, và thích ngồi ở bàn danh dự nơi các đám tiệc. 47 Họ nuốt nhà các bà góa, mà lúc nào cũng làm ra vẻ đạo mạo bằng những bài cầu nguyện dài lê thê. Những người ấy sẽ nhận bản án nặng nề hơn.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang