Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Sử Ký 7-8

Dòng Dõi của I-sa-ca

Các con của I-sa-ca là Tô-la, Pu-a, Gia-súp, và Sim-rôn, bốn người.

Các con của Tô-la là U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Gia-mai, Íp-sam, và Sê-mu-ên. Họ đều là thủ lãnh của các thị tộc của họ, tức các con cháu của Tô-la. Họ là những dũng tướng chỉ huy các thế hệ con cháu của họ. Quân số của họ trong thời của Ða-vít là hai mươi hai ngàn sáu trăm người.

Con của U-xi là Ít-ra-hi-a.

Các con của Ít-ra-hi-a là Mi-chên, Ô-ba-đi-a, Giô-ên, và I-si-a. Năm cha con đều là các thủ lãnh. Dưới sự chỉ huy của họ là các thế hệ con cháu tổ chức thành những đơn vị sẵn sàng xông pha trận tuyến, tính theo từng gia tộc tổng cộng được ba mươi sáu ngàn người, vì họ có nhiều vợ và con.

Tất cả con cháu trong dòng dõi của I-sa-ca được tám mươi bảy ngàn chiến sĩ dũng mãnh, liệt kê theo gia phả của họ.

Dòng Dõi của Bên-gia-min

Các con của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên – ba người.

Các con của Bê-la là Ê-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và I-ri – năm người. Tất cả đều là thủ lãnh và là dũng tướng. Quân số của họ tính theo gia phả họ đã đăng bộ là hai mươi hai ngàn ba mươi bốn người.

Các con của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-xe, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-thốt, và A-lê-mết. Tất cả những người ấy là con của Bê-ke. Họ ghi danh theo gia phả và theo từng thế hệ, dưới sự chỉ huy của các thủ lãnh trong dòng họ của họ, tất cả đều là những chiến sĩ dũng mãnh, tổng cộng được hai mươi ngàn hai trăm người.

10 Con của Giê-đi-a-ên là Bin-han.

Các con của Bin-han là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-a-na, Xê-than, Tạt-si, và A-hi-sa-ha. 11 Tất cả những người ấy là các con của Giê-đi-a-ên. Họ là những dũng tướng và những thủ lãnh trong dòng họ của họ. Họ chỉ huy mười bảy ngàn hai trăm người sẵn sàng xông ra trận tuyến.

12 Ngoài ra còn có Súp-pim và Húp-pim là các con của I-rơ, và cũng có Hu-sim là con của A-he.

Dòng Dõi của Náp-ta-li

13 Các con cháu của Náp-ta-li là Gia-xi-ên, Gu-ni, Giê-xe, và Sanh-lum, tức các con cháu của bà Bin-ha.

Dòng Dõi của Ma-na-se

14 Các con cháu của Ma-na-se là Át-ri-ên, đứa con do dòng dõi của tỳ thiếp người A-ram sinh cho ông; bà sinh Ma-khia cha của Ghi-lê-át. 15 Ma-khia cưới em gái của Húp-pim và Súp-pim làm vợ; tên của người em gái đó là Ma-a-ca. Tên người con thứ của bà là Xê-lô-phê-hát. Xê-lô-phê-hát chỉ có các con gái. 16 Ma-a-ca vợ của Ma-khia sinh một con trai, bà đặt tên cho nó là Pê-rết; tên em trai của nó là Sê-rết. Các con của Pê-rết là U-lam và Rê-kem.

17 Con của U-lam là Bê-đan.

Ðó là những người trong gia tộc của Ghi-lê-át con của Ma-khia, con của Ma-na-se.

18 Em gái của Ma-khia là Ham-mô-lê-kết. Bà sinh Ích-hốt, A-bi-ê-xe, và Ma-la.

19 Các con của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-chem, Li-khi, và A-ni-am.

Dòng Dõi của Ép-ra-im

20 Các con cháu của Ép-ra-im là Su-thê-la. Con của Su-thê-la là Bê-rết; con của Bê-rết là Ta-hát; con của Ta-hát là Ê-lê-a-đa; con của Ê-lê-a-đa là Ta-hát; 21 con của Ta-hát là Xa-bát; con của Xa-bát là Su-thê-la. Còn Ê-xe và Ê-lê-át đã bị dân Gát, những người sinh trưởng trong xứ, giết vì họ đã xuống đánh cướp súc vật của người ta. 22 Cha của họ là Ép-ra-im đã than khóc họ nhiều ngày. Các anh em của ông đã đến an ủi ông. 23 Ép-ra-im đến với vợ ông và bà sinh cho ông một con trai; ông đặt tên nó là Bê-ri-a, bởi vì điều không may đã xảy đến cho gia đình ông. 24 Con gái của ông là Sê-ê-ra, người đã xây Hạ và Thượng Bết Hô-rôn và U-xên Sê-ê-ra.

25 Rê-pha là con cháu của ông; con của Rê-pha là Rê-sép; con của Rê-sép là Tê-la; con của Tê-la là Ta-han; 26 con của Ta-han là La-đan; con của La-đan là Am-mi-hút; con của Am-mi-hút là Ê-li-sa-ma; 27 con của Ê-li-sa-ma là Nun; con của Nun là Giô-suê.

28 Sản nghiệp của họ và vùng định cư của họ là Bê-tên và các thị trấn trực thuộc thành ấy chạy dài đến Ay-gia và các thị trấn trực thuộc thành ấy. 29 Họ cũng sống dọc theo ranh giới của lãnh thổ thuộc chi tộc Ma-na-se. Họ sống ở Bết Sê-an và các thị trấn trực thuộc thành ấy, Ta-a-nách và các thị trấn trực thuộc thành ấy, Mê-ghi-đô và các thị trấn trực thuộc thành ấy, Ðô-rơ và các thị trấn trực thuộc thành ấy. Ðó là những nơi con cháu của Giô-sép con của I-sơ-ra-ên đã sinh sống.

Dòng Dõi của A-se

30 Các con cháu của A-se là Im-na, Ích-va, Ích-vi, Bê-ri-a, và em gái của họ là Sê-ra.

31 Các con của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên, tổ phụ của Bích-xa-ít.

32 Hê-be sinh Giáp-lết, Sô-me, Hô-tham, và Su-a em gái của họ.

33 Các con của Giáp-lết là Pa-sách, Bim-hanh, và Ách-va. Những người ấy là các con của Giáp-lết.

34 Các con của Sê-me là A-hi, Rô-ga, Húp-ba, và A-ram.

35 Các con của Hê-lem em trai ông là Xô-pha, Im-na, Sê-lết, và A-manh.

36 Các con của Xô-pha là Su-a, Hạc-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Im-ra, 37 Bê-xe, Hốt, Sam-ma, Sinh-sa, Ít-ran, và Bê-ê-ra.

38 Các con của Giê-the là Giê-phu-nê, Pít-pa, và A-ra.

39 Các con của Un-la là A-ra, Han-ni-ên, và Ri-xi-a.

40 Tất cả những người ấy là con cháu của A-se, các thủ lãnh thị tộc của họ, những dũng tướng được tuyển chọn để chỉ huy các sĩ quan. Quân số của họ đăng bộ theo gia phả để sẵn sàng xông pha trận tuyến là hai mươi sáu ngàn người.

Dòng Dõi của Bên-gia-min

Bên-gia-min sinh Bê-la con đầu lòng của ông, Ách-bên con thứ hai, A-ha-ra con thứ ba, Nô-ha con thứ tư, và Ra-pha con thứ năm.

Bê-la sinh các con: Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, A-bi-sua, Na-a-man, A-hô-a, Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram.

Ðây là các con của Ê-hút, những thủ lãnh thị tộc của họ, dân cư ở Ghê-ba, và họ đã bị đem đi lưu đày ở Ma-na-hát: Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra, người đem họ đi lưu đày và là người sinh U-xa và A-hi-hút.

Sa-ha-ra-im đã sinh được các con trong đồng bằng Mô-áp sau khi ông ly hôn với hai người vợ của ông là Hu-sim và Ba-a-ra. Ông cưới bà Hô-đét. Các con bà ấy sinh cho ông là Giô-báp, Xi-bi-a, Mê-sa, Manh-cam, 10 Giê-u, Sa-khia, và Mia-ma. Ðó là các con của ông, những thủ lãnh của thị tộc. 11 Ngoài ra, bà Hu-sim cũng đã sinh cho ông A-bi-túp và Ên-pa-anh.

12 Các con của Ên-pa-anh là Ê-be, Mi-sam, và Sê-mết, người xây dựng Thành Ô-nô và Thành Lốt cùng các thị trấn trực thuộc thành ấy. 13 Bê-ri-a và Sê-ma là các thủ lãnh thị tộc của họ, dân cư ở Ai-gia-lôn, những người đã làm cho dân Gát phải bỏ chạy để cứu mạng, 14 và A-hi-ô, Sa-sác, và Giê-rê-mốt.

15 Xê-ba-đi-a, A-rát, Ê-đe, 16 Mi-chên, Ích-pa, và Giô-ha là các con của Bê-ri-a.

17 Xê-ba-đi-a, Mê-su-lam, Hi-xơ-ki, Hê-be, 18 Ích-mê-rai, Ít-li-a, và Giô-báp là các con của Ên-pa-anh.

19 Gia-kim, Xích-ri, Xáp-đi, 20 Ê-li-ê-nai, Xinh-lê-thai, Ê-li-ên, 21 A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát là các con của Si-mê-i.

22 Ích-pan, Ê-be, Ê-li-ên, 23 Áp-đôn, Xích-ri, Ha-nan, 24 Ha-na-ni-a, Ê-lam, An-thô-thi-gia, 25 I-phơ-đê-gia, và Pê-nu-ên là các con của Sa-sác.

26 Sam-sê-rai, Sê-ha-ri-a, A-tha-li-a, 27 Gia-a-rê-si-a, Ê-li-gia, và Xích-ri là các con của Giê-hô-ram.

28 Ðó là những thủ lãnh các thị tộc của họ, theo gia phả của họ. Họ là những người chỉ huy và sống tại Giê-ru-sa-lem.

29 Ở Ghi-bê-ôn có Giê-i-ên.[a] Cha của Ghi-bê-ôn sống tại đó; vợ ông tên là Ma-a-ca. 30 Con đầu lòng của ông là Áp-đôn, kế đến là Xu-rơ, Kích, Ba-anh,[b] Na-đáp, 31 Ghê-đô, A-hi-ô, Xê-ke, 32 và Mít-lốt, người sinh Si-mê-a. Lúc ấy, những người đó, tức những người trong bà con của họ, sống cận kề với nhau ở Giê-ru-sa-lem.

33 Nê-rơ sinh Kích. Kích sinh Sau-lơ. Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.[c]

34 Con của Giô-na-than là Mê-ríp Ba-anh.[d] Mê-ríp Ba-anh sinh Mi-ca.

35 Các con của Mi-ca là Pi-thôn, Mê-lếch, Ta-rê-a, và A-kha. 36 A-kha sinh Giê-hô-a-đa. Giê-hô-a-đa sinh A-lê-mết, A-ma-vết, và Xim-ri. Xim-ri sinh Mô-xa. 37 Mô-xa sinh Bi-nê-a. Rê-phát là con của Bi-nê-a. Ê-lê-a-sa là con của Rê-phát. A-xên là con của Ê-lê-a-sa.

38 A-xên có sáu con, và đây là tên của họ: A-xơ-ri-cam, Bô-kê-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ri-a, Ô-ba-đi-a, và Ha-nan. Tất cả những người ấy là con của A-xên.

39 Các con của Ê-sết em ông là U-lam con đầu lòng, Giê-út con thứ nhì, và Ê-li-phê-lết con thứ ba. 40 Các con của U-lam đều là những chiến sĩ dũng mãnh, những xạ thủ tài tình, và họ có nhiều con cháu – một trăm năm mươi người cả thảy.

Tất cả những người đó là con cháu của Bên-gia-min.

Hê-bơ-rơ 11

Ý Nghĩa của Ðức Tin

11 Ðức tin là bảo đảm cho những gì mình đang hy vọng, là biết chắc về những điều mình chẳng trông thấy. Nhờ đức tin các bậc tiền nhân được lời chứng tốt. Nhờ đức tin chúng ta biết vũ trụ được dựng nên bởi lời Ðức Chúa Trời, và những gì thấy được đến từ những gì không thấy được.

Gương Ðức Tin của Các Thánh Tổ

Bởi đức tin A-bên dâng lên Ðức Chúa Trời một lễ vật hiến tế tốt hơn của Ca-in, nhờ đó ông được chứng là người công chính; Ðức Chúa Trời chấp nhận lễ vật của ông, và qua đó, dù đã chết, ông vẫn còn nói.

Bởi đức tin Ê-nóc được cất lên và không phải trải qua sự chết; người ta không tìm thấy ông, vì Ðức Chúa Trời đã cất ông lên. Số là trước khi được cất lên, ông được chứng là người sống đẹp lòng Ðức Chúa Trời. Không có đức tin thì không thể nào sống đẹp lòng Ðức Chúa Trời, vì ai đến gần Ðức Chúa Trời phải tin rằng Ngài hiện hữu, và Ngài là Ðấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài.

Bởi đức tin Nô-ê được Ðức Chúa Trời báo trước về những điều ông chưa thấy; với lòng thành tâm kính sợ ông đóng một chiếc tàu để cứu gia đình mình; qua đó ông lên án thế gian và trở thành người thừa kế sự công chính nhờ đức tin.

Bởi đức tin Áp-ra-ham vâng lời khi được gọi đi đến xứ ông sẽ nhận làm cơ nghiệp; ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Bởi đức tin ông cư ngụ trong xứ đã hứa cho mình như một kiều dân sống ở ngoại quốc, ở trong các trại với I-sác và Gia-cốp, những người cùng thừa hưởng lời hứa với ông; 10 vì ông trông đợi một thành có nền tảng vững chắc do chính Ðức Chúa Trời thiết kế và xây dựng.

11 Bởi đức tin ngay cả Sa-ra, một người hiếm muộn, nhận lấy khả năng sinh con khi tuổi đã già, vì bà tin rằng Ðấng đã hứa với bà là thành tín. 12 Bởi vậy từ một người coi như đã chết lại sinh ra một dòng dõi đông như sao trên trời, như cát bờ biển, không sao đếm được.

13 Tất cả những người ấy đã chết trong đức tin, chưa nhận được điều đã hứa cho mình, nhưng chỉ trông thấy và đón chào từ xa, xưng mình là những kiều dân và những lữ khách trên đất. 14 Vì những người nói như thế chứng tỏ rằng họ đang còn đi tìm một quê hương. 15 Nếu họ đã nghĩ đến quê hương mà họ từ đó ra đi, chắc hẳn họ đã có cơ hội trở về. 16 Nhưng bấy giờ họ mong ước một quê hương tốt hơn, đó là quê hương trên trời. Vì thế Ðức Chúa Trời không hổ thẹn khi được xưng là Ðức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành.

17 Bởi đức tin Áp-ra-ham, khi bị thử thách, đem dâng I-sác, tức người nhận được những lời hứa đem dâng đứa con một của mình. 18 Về đứa con đó, có lời phán rằng,

“I-sác sẽ là người sinh ra dòng dõi mang tên ngươi.”Sáng 21:12

19 Ông nghĩ rằng Ðức Chúa Trời có quyền làm cho người chết sống lại; nói theo nghĩa bóng, ông đã nhận lại con mình.

20 Bởi đức tin I-sác chúc phước cho Gia-cốp và Ê-sau về những việc tương lai.

21 Bởi đức tin, lúc gần qua đời, Gia-cốp chúc phước cho mỗi con trai của Giô-sép, và ông vịn vào đầu cây gậy của mình mà thờ phượng.

22 Bởi đức tin, lúc gần qua đời, Giô-sép nói trước về cuộc xuất hành của con cháu I-sơ-ra-ên và truyền cho họ phải mang hài cốt ông theo.

23 Bởi đức tin, khi Môi-se sinh ra, cha mẹ ông giấu ông trong ba tháng, vì họ thấy đứa bé xinh đẹp, và họ không sợ sắc lịnh của vua.

24 Bởi đức tin, Môi-se, khi khôn lớn, từ bỏ danh hiệu con trai của công chúa Pha-ra-ôn. 25 Ông thà chọn bị ngược đãi với dân Ðức Chúa Trời hơn là thụ hưởng vui sướng tạm thời của tội lỗi. 26 Ông coi sự chịu nhục của “người được xức dầu để làm người giải cứu và lãnh đạo”[a] cao quý hơn của cải trong các kho tàng của Ai-cập, vì ông trông vào phần thưởng tương lai.

27 Bởi đức tin ông rời Ai-cập mà không sợ cơn giận của vua, vì ông kiên trì như thể thấy Ðấng không thể thấy được.

28 Bởi đức tin ông giữ Lễ Vượt Qua và rảy huyết để Thần Hủy Diệt không đụng đến các con đầu lòng của họ.

29 Bởi đức tin họ vượt qua Hồng Hải như đi trên đất khô; còn người Ai-cập khi cố đi qua thì bị nước biển chôn vùi.

30 Bởi đức tin các tường thành Giê-ri-cô sụp đổ khi dân I-sơ-ra-ên đi vòng quanh bảy ngày.

31 Bởi đức tin Ra-háp, người kỹ nữ, không bị tiêu diệt với những kẻ chẳng vâng phục, vì nàng tiếp đón các thám tử với thành ý bình an.

32 Tôi sẽ nói gì nữa? Tôi sẽ không đủ thì giờ để kể các chuyện của Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Ða-vít, Sa-mu-ên, và các vị tiên tri, 33 những người đã nhờ đức tin chinh phục các nước, thực thi công lý, đạt điều được hứa, bịt mồm sư tử, 34 dập tắt lửa hừng, thoát khỏi lưỡi gươm, chuyển yếu thành mạnh, anh dũng trong chiến trận, đẩy lui quân ngoại xâm. 35 Có những phụ nữ nhận lại người thân của mình từ cõi chết sống lại. Có những người thà chịu tra tấn đến chết chứ không chịu chối bỏ đức tin để nhận sự phóng thích, hầu được sự sống lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người bị chế nhạo và bị đánh đòn, thậm chí bị xiềng xích và lao tù. 37 Họ bị ném đá, bị cưa hai, bị giết bằng gươm. Họ phải lưu lạc rày đây mai đó với quần áo bằng da chiên, da dê, bị thiếu thốn, bị đàn áp, bị ngược đãi. 38 Thế gian không xứng đáng cho họ ở. Họ sống lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong các hang động, và trong các hầm hố dưới đất.

39 Tất cả những người ấy nhờ đức tin đều được lời chứng tốt, nhưng chưa nhận được điều đã hứa cho mình, 40 vì Ðức Chúa Trời đã chuẩn bị điều tốt hơn cho chúng ta, để không có chúng ta, họ chưa thể được làm cho trọn vẹn.

A-mốt 5

Than Khóc vì Tội của I-sơ-ra-ên

Hỡi nhà I-sơ-ra-ên, hãy nghe sứ điệp nầy.
Ðây là bài ai ca tôi làm riêng cho các người:

“Nàng trinh nữ của I-sơ-ra-ên đã ngã xuống;
Nàng không đứng dậy được nữa;
Nàng bị ngã khuỵu trên mặt đất,
Không ai đỡ nàng lên.”

Chúa Hằng Hữu phán thế nầy,
“Thành nào đem một ngàn quân ra trận sẽ còn lại một trăm,
Thành nào đem một trăm quân ra trận sẽ còn lại mười người cho nhà I-sơ-ra-ên.”

Chúa phán thế nầy về nhà I-sơ-ra-ên,
“Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ sống;
Nhưng chớ tìm đến Bê-tên, chớ đi vào Ghinh-ganh, và chớ lặn lội về Bê-e Sê-ba,
Vì dân Ghinh-ganh sẽ bị đem đi lưu đày, và Bê-tên sẽ trở thành nơi hoang địa.”
Hãy tìm Chúa thì các người sẽ sống;
Nếu không Ngài sẽ như một ngọn lửa bùng lên trong nhà Giô-sép,
Ngọn lửa ấy sẽ thiêu rụi Bê-tên, và không ai dập tắt nó được.

Các người đã biến công lý ra ngải đắng,
Và ném lẽ công chính xuống đất.

Ðấng dựng nên chòm sao Kim Ngưu và chòm sao Thiên Lang,
Ðấng đổi tối ra sáng và khiến ngày thành đêm,
Ðấng đã kêu nước biển và bảo phải làm mưa tưới trên mặt đất,
Danh Ngài là Chúa.
Ngài làm cho kẻ có quyền thế phải bị diệt vong,
Và biến các thành trì kiên cố ra điêu tàn đổ nát.

10 Chúng ghét cay quan tòa nào xét xử công minh ở chốn công đường,[a]
Chúng ghét đắng những người dám nói lên sự thật.
11 Vì các người giày đạp những người nghèo và đánh thuế cao để cướp đi số lúa gạo ít ỏi của họ.
Tuy các người đã dùng những viên đá đã đục sẵn để xây các dinh thự nguy nga cho mình, nhưng các người sẽ không được ở trong các dinh thự đó;
Còn những vườn nho tốt tươi mà các người đã khổ công trồng tỉa, các người sẽ không được uống rượu nho do chúng sản xuất.
12 Vì tôi biết rõ các người đã phạm quá nhiều tội lỗi, và tội các người quả là quá nặng,
Nào áp bức người ngay lành, nào nhận của hối lộ, nào tước đoạt công lý của người nghèo ở chốn công đường.
13 Vì vậy trong thời buổi như thế người khôn ngoan giữ miệng mình im lặng,
Vì đó là một thời khốn nạn.

14 Hãy tìm điều thiện và chớ tìm điều ác, để các người sẽ sống,
Như vậy Chúa, Ðức Chúa Trời của các đạo quân, sẽ ở với các người, y như lời các người đã nói.
15 Hãy ghét điều ác và tìm điều thiện;
Hãy duy trì công lý ở chốn công đường,
Biết đâu Chúa, Ðức Chúa Trời của các đạo quân, sẽ dủ lòng thương xót những kẻ còn sót lại của Giô-sép.

16 Vậy, Chúa, Ðức Chúa Trời của các đạo quân, là Chúa, phán thế nầy,
“Rồi đây sẽ có tiếng khóc than ở khắp các quảng trường,
Tiếng kêu la đau khổ sẽ vang đầy các đường phố;
Ðâu đâu cũng sẽ nghe chúng nói, ‘Than ôi! Than ôi!’
Rồi chúng sẽ gọi các nông dân đến để cùng nhau than khóc;
Chúng sẽ mời những kẻ chuyên hát các điệu ai ca đến để giúp bộc lộ nỗi đau thương.

17 Trong mọi vườn nho, tiếng khóc than vang vọng,
Vì Ta sẽ đi qua giữa ngươi,”
Chúa phán.

Ngày của Chúa Thật Ðen Tối

18 Khốn cho các người, những ai mong muốn ngày của Chúa.
Tại sao các người lại mong muốn ngày của Chúa?
Ðó là ngày đen tối chứ không phải ngày sáng sủa.
19 Giống như một người chạy trốn sư tử mà gặp nhằm gấu dữ,
Hoặc vào nhà, vịn tay vào tường, và bị rắn độc ở kẽ đá trong tường cắn vào tay.
20 Chẳng phải ngày của Chúa là ngày đen tối và không sáng sủa,
Một ngày mù mịt và không tươi sáng sao?

Chúa Không Hài Lòng về Sự Thờ Phượng Chỉ Bằng Hình Thức

21 “Ta ghét, Ta khinh những ngày lễ của các ngươi;
Ta không vui chút nào về những kỳ đại hội trọng thể của các ngươi.
22 Dù các ngươi dâng lên Ta các của lễ thiêu và các của lễ chay,
Ta sẽ không nhận các của lễ ấy;
Các của lễ cầu an bằng những con thú béo,
Ta sẽ không ngó ngàng gì tới.
23 Hãy cất đi khỏi Ta tiếng ồn ào của những bài thánh ca ngươi ca ngợi;
Ta không muốn nghe những tiếng nhạc của ngươi.
24 Nhưng hãy để công lý tuôn tràn như nước trên ngàn đổ xuống,
Và hãy để công chính láng lai như dòng suối chảy mãi không ngừng.
25 Hỡi nhà I-sơ-ra-ên,
Chẳng phải các ngươi đã dâng lên Ta các thú vật hiến tế và các của lễ suốt bốn mươi năm trong đồng hoang sao?
26 Nhưng thật ra trong lòng các ngươi chỉ ấp ủ đến cái lều có tượng Thần Mô-lốc của các ngươi,
Và hình tượng của Ki-un thần tinh tú của các ngươi mà các ngươi đã tự tạo cho mình.
27 Vì thế Ta sẽ bắt các ngươi bị lưu đày ở những nơi xa hơn Ða-mách,”
Chúa, danh Ngài là Ðức Chúa Trời của các đạo quân, phán vậy.

Lu-ca 1:1-38

Lời Ngỏ đến Thê-ô-phi-lơ

Vì có nhiều người đã cố gắng ghi lại những việc được thực hiện giữa chúng ta, như lời những người đã chứng kiến từ ban đầu và những người đã trở thành tôi tớ của đạo Chúa[a] truyền lại cho chúng ta, nên sau khi tra cứu cẩn thận mọi việc từ đầu, tôi thiết tưởng cũng nên ghi lại một cách thứ tự cho ngài, thưa ngài Thê-ô-phi-lơ rất kính mến, để ngài có thể biết cách xác thật về đạo[b] mà ngài đã được dạy.

THỜI THƠ ẤU VÀ ẨN DẬT CỦA GIĂNG BÁP-TÍT VÀ ÐỨC CHÚA JESUS

(1:5-2:52)

Báo Tin Giăng Báp-tít Sinh Ra

Trong thời Vua Hê-rốt[c] xứ Giu-đê, có một tư tế tên là Xa-cha-ri, thuộc dòng tư tế A-bi-gia. Vợ ông tên là Ê-li-sa-bét, thuộc dòng dõi A-rôn. Cả hai vợ chồng là người công chính trước mặt Ðức Chúa Trời, vâng giữ các điều răn và mạng lịnh của Chúa không chỗ nào chê trách được. Nhưng hai người không có con, vì Ê-li-sa-bét hiếm muộn, và hai người đã cao tuổi.

Một ngày kia Xa-cha-ri thi hành chức vụ tư tế trước mặt Ðức Chúa Trời theo phiên thứ của ông; ông được trúng thăm theo thông lệ của các tư tế lúc bấy giờ để vào dâng hương trong đền thánh của Chúa.

10 Ðúng vào giờ dâng hương, trong khi hội chúng đang cầu nguyện bên ngoài, 11 một thiên sứ của Chúa hiện ra với ông và đứng bên phải của bàn thờ dâng hương. 12 Khi Xa-cha-ri thấy vị thiên sứ, ông hoảng sợ và nỗi kinh hoàng phủ lấy ông. 13 Nhưng vị thiên sứ nói với ông, “Hỡi Xa-cha-ri, đừng sợ, vì lời cầu nguyện của ngươi đã được nhậm. Ê-li-sa-bét vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên con trai đó là Giăng. 14 Ðứa con ấy sẽ là niềm vui hớn hở cho ngươi. Nhiều người sẽ hoan hỉ khi nó chào đời, 15 vì nó sẽ thành một vĩ nhân trước mặt Chúa. Nó sẽ không được uống rượu hay thức uống gì làm cho say. Nó sẽ được đầy dẫy Ðức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ. 16 Nó sẽ làm cho nhiều người I-sơ-ra-ên quay về với Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. 17 Nó sẽ đi trước mặt Chúa với tinh thần và quyền năng của Ê-li. Nó sẽ làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, và những kẻ bội nghịch sẽ vâng theo sự khôn ngoan của người công chính, để chuẩn bị một dân sẵn sàng cho Chúa.”

18 Xa-cha-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao tôi biết việc này sẽ xảy ra, vì tôi đã già, còn vợ tôi lại cao tuổi?”

19 Vị thiên sứ trả lời và nói với ông, “Ta là Gáp-ri-ên, đứng hầu trước mặt Ðức Chúa Trời, và ta được sai đến để nói với ngươi và báo cho ngươi tin mừng này. 20 Này, ngươi sẽ bị câm và không nói được cho đến ngày những điều ấy xảy ra, bởi vì ngươi không tin những lời ta, những lời sẽ xảy ra đúng kỳ đã định cho chúng.”

21 Trong khi đó dân chúng bên ngoài trông đợi Xa-cha-ri; họ hoang mang lo lắng vì ông ở trong đền thánh quá lâu. 22 Khi thấy ông trở ra và không thể nói được với họ, họ nhận biết rằng ông đã thấy một khải tượng trong đền thánh. Ông cứ ra dấu với họ và không thể nói được. 23 Khi thời kỳ phục vụ của ông mãn, ông trở về nhà.

24 Sau những ngày đó, bà Ê-li-sa-bét vợ ông thụ thai; bà sống ẩn dật trong năm tháng. Bà nói, 25 “Ðây là điều Chúa đã làm cho tôi khi Ngài làm ơn cho tôi, Ngài đã cất khỏi tôi nỗi tủi hổ giữa người đời.”

Thiên Sứ Báo Tin Chúa Giáng Sinh

26 Vào tháng thứ sáu, Ðức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến Thành Na-xa-rét, miền Ga-li-lê, 27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một thanh niên tên là Giô-sép, thuộc dòng Vua Ða-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ry. 28 Thiên sứ đến gặp nàng và nói, “Hỡi người được ơn, chúc mừng cô, Chúa ở cùng cô.”

29 Nghe như thế Ma-ry bối rối và tự hỏi lời chào ấy có nghĩa gì. 30 Thiên sứ nói với nàng, “Hỡi Ma-ry, đừng sợ, vì cô đã được ơn trước mặt Ðức Chúa Trời. 31 Này, cô sẽ có thai, sinh một con trai, và cô sẽ đặt tên con trai ấy là Jesus. 32 Con trai ấy sẽ thành một vĩ nhân và sẽ được gọi là Con của Ðấng Tối Cao. Chúa, Ðức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngai của Ða-vít tổ phụ Ngài. 33 Ngài sẽ trị vì nhà Gia-cốp đời đời. Vương quốc Ngài sẽ trường tồn bất tận.”

34 Ma-ry thưa với thiên sứ, “Làm sao việc ấy có thể xảy ra được, vì tôi chưa hề biết một người nam nào?”

35 Thiên sứ trả lời và nói với nàng, “Ðức Thánh Linh sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ cô. Vì thế Con Thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Ðức Chúa Trời. 36 Kìa Ê-li-sa-bét, bà con của cô, đang mang thai một trai trong tuổi già nua. Bà ấy vốn có tiếng là hiếm muộn mà nay đã mang thai được sáu tháng rồi, 37 bởi vì không việc chi Ðức Chúa Trời chẳng làm được.”

38 Ma-ry thưa, “Tôi đây là tớ gái của Chúa, xin việc ấy xảy ra cho tôi như lời ngài truyền.” Sau đó thiên sứ lìa khỏi Ma-ry.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang