Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Sử Ký 3-4

Dòng Dõi của Ða-vít và Sa-lô-môn

Ðây là các con của Ða-vít sinh tại Hếp-rôn: Am-nôn con đầu lòng, mẹ là A-hi-nô-am người Giê-rê-ên; Ða-ni-ên con thứ nhì, mẹ là A-bi-ga-in người Cạt-mên; Áp-sa-lôm con thứ ba, mẹ là Ma-a-ca con gái của Tanh-mai, vua Ghê-sua; A-đô-ni-gia con thứ tư, mẹ là Hắc-ghít; Sê-pha-ti-a con thứ năm, mẹ là A-bi-tanh; Ít-rê-am con thứ sáu, do Éc-la vợ của ông sinh cho ông. Sáu người con đó đều sinh tại Hếp-rôn, nơi ông đã trị vì bảy năm sáu tháng.

Sau đó ông trị vì ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Ðây là các con của ông sinh tại Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn. Mẹ của bốn người nầy là Bát Su-a, con gái của Am-mi-ên. Các con khác là Íp-ha, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phéc, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết – chín người cả thảy. Tất cả những người đó là con của Ða-vít, không kể các con do các cung phi của ông sinh cho ông, và Ta-ma là em gái của họ.

10 Con trai của Sa-lô-môn là Rê-hô-bô-am; con của Rê-hô-bô-am là A-bi-gia; con của A-bi-gia là A-sa; con của A-sa là Giê-hô-sa-phát; 11 con của Giê-hô-sa-phát là Giô-ram; con của Giô-ram là A-ha-xi-a; con của A-ha-xi-a là Giô-ách; 12 con của Giô-ách là A-ma-xi-a; con của A-ma-xi-a là A-xa-ri-a; con của A-xa-ri-a là Giô-tham; 13 con của Giô-tham là A-kha; con của A-kha là Ê-xê-chia; con của Ê-xê-chia là Ma-na-se; 14 con của Ma-na-se là A-môn; con của A-môn là Giô-si-a.

15 Các con của Giô-si-a là Giô-ha-nan con đầu lòng, Giê-hô-gia-kim con thứ nhì, Xê-đê-ki-a con thứ ba, Sanh-lum con thứ tư. 16 Các con của Giê-hô-gia-kim là Giê-cô-ni-a[a] con của ông, và Xê-đê-ki-a[b] con của ông.

17 Các con của Giê-cô-ni-a, người bị bắt đi lưu đày, là Sê-anh-ti-ên con của ông, 18 Manh-ki-ram, Pê-đai-a, Sê-na-xa, Giê-ca-mi-a, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bi-a.

19 Các con của Pê-đai-a là Xê-ru-ba-bên và Si-mê-i.

Các con của Xê-ru-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-ni-a. Em gái của họ là Sê-lô-mít. 20 Ngoài ra ông còn có năm người con nữa là Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-ki-a, Ha-sa-đi-a, và Giu-sáp Hê-sết.

21 Các con của Ha-na-ni-a là Pê-la-ti-a và Giê-sa-gia. Con của Giê-sa-gia là Rê-pha-gia. Con của Rê-pha-gia là Ạc-nan. Con của Ạc-nan là Ô-ba-đi-a. Con của Ô-ba-đi-a là Sê-ca-ni-a.

22 Con cháu của Sê-ca-ni-a gồm Sê-ma-gia và các con của Sê-ma-gia, đó là Hát-túc, I-ganh, Ba-ri-a, Nê-a-ri-a, và Sa-phát, sáu người cả thảy.

23 Các con của Nê-a-ri-a là Ê-li-ô-ê-nai, Hi-ki-a, A-xơ-ri-cam, ba người cả thảy.

24 Các con của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-vi-a, Ê-li-a-síp, Pê-la-gia, Ạc-cúp, Giô-ha-nan, Ðê-la-gia, và A-na-ni – bảy người cả thảy.

Dòng Dõi của Giu-đa

Các con của Giu-đa là Pê-rê, Hê-xơ-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.

Rê-a-gia con của Sô-banh sinh Gia-hát. Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Ðó là những gia tộc của thị tộc Xô-ra-thi.

Ðây là các con của[c] Ê-tam: Giê-rê-ên, Ích-ma, I-bách, và Ha-xê-lên-pô-ni em gái của họ. Pê-nu-ên là cha của Ghê-đô; Ê-xe là cha của Hu-sa.

Ðây là các con của Hu-rơ, con đầu lòng của Ép-ra-tha, cha của Bết-lê-hem.

Ách-sua cha của Tê-cô-a có hai vợ: Hê-la và Na-a-ra.

Na-a-ra sinh cho ông A-hu-xam, Hê-phe, Tê-mê-ni, và Ha-a-hách-ta-ri. Ðó là các con của bà Na-a-ra.

Các con của bà Hê-la là Xê-rết, Ít-ha,[d] và Ết-nan. Cô-xơ sinh A-núp, Xô-bê-ba, và các gia tộc của A-hạc-hên con của Ha-rum.

Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em ông. Mẹ ông đặt tên cho ông là Gia-bê; bà nói, “Vì tôi đã sinh nó ra trong đau đớn.” 10 Gia-bê kêu cầu Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên rằng, “Ôi, xin Chúa ban phước cho con và mở rộng bờ cõi con, xin tay Ngài ở với con để phù hộ con, và xin Ngài giữ con khỏi những gì xấu xa gian ác, để con khỏi phải đau buồn.” Ðức Chúa Trời ban cho ông những gì ông cầu xin.

11 Kê-lúp anh của Su-ha sinh Mê-hi-rơ; Mê-hi-rơ là cha của Ếch-tôn.

12 Ếch-tôn sinh Bết Ra-pha, Pa-sê-a, và Tê-hin-na; Tê-hin-na là cha của I-na-hách. Ðó là những người của Rê-cáp.

13 Các con của Kê-na là Ốt-ni-ên, Sê-ra-gia.

Các con của Ốt-ni-ên là Ha-thát và Mê-ô-nô-thai.[e]

14 Mê-ô-nô-thai sinh Ốp-ra.

Sê-ra-gia sinh Giô-áp, ông tổ của Thung Lũng Thợ Thủ Công, vì họ là những thợ thủ công.

15 Các con của Ca-lép con trai Giê-phu-nê là I-ru, Ê-la, và Na-am.

Con của Ê-la là Kê-na.

16 Các con của Giê-ha-lê-lên là Xíp, Xi-pha, Ti-ri-a, và A-sa-rên.

17 Các con của Ê-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn.

Ðây là các con của Bi-thi-a con gái của Pha-ra-ôn mà Mê-rết đã cưới làm vợ. Bà mang thai và sinh cho ông Mi-ri-am, Sam-mai, và Ích-ba cha của Ếch-tê-mô-a. 18 Còn người vợ Giê-hu-đi-gia của ông sinh cho ông Giê-rết cha của Ghê-đô, Hê-be cha của Sô-cô, và Giê-cư-thi-ên cha của Xa-nô-a.

19 Các con của vợ ông Hô-đi-a em gái của Na-ham là tổ tiên của Kê-i-la sinh ra dòng họ Gạc-mi, và Ếch-tê-mô-a sinh ra dòng họ Ma-a-ca-thi.

20 Các con của Si-môn là Am-môn, Rin-na, Bên Ha-nan, và Ti-lôn. Các con của I-si là Xô-hết và Bên Xô-hết.

21 Các con của Sê-la con của Giu-đa là Ê-rơ cha của Lê-ca, Lê-a-đa cha của Ma-rê-sa, và các gia tộc của nghiệp đoàn thợ sản xuất vải gai mịn ở Bết Ách-bê-a, 22 Giô-kim, những người ở Cô-xê-ba, Giô-ách, Sa-ráp, người đã qua Mô-áp cưới vợ nhưng sau đó đã trở về cư ngụ tại Lê-hem – đó là chuyện xưa. 23 Những người ấy là các thợ gốm và là dân cư ở Nê-ta-im và Ghê-đê-ra. Họ sống ở đó với vua để phục vụ vua.

Dòng Dõi của Si-mê-ôn

24 Các con của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, và Sa-un.

25 Các con của Sa-un là Sanh-lum con của ông, Míp-sam con của ông, và Mích-ma con của ông.

26 Các con của Mích-ma là Ha-mu-ên con của ông, Xác-cua con của ông, và Si-mê-i con của ông.

27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái, nhưng các anh em ông không có nhiều con, và chi tộc của họ không có đông con cái như người Giu-đa. 28 Họ cư ngụ ở vùng Bê-e Sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa Su-anh, 29 Bin-ha, Ê-xem, Tô-la, 30 Bê-thu-ên, Học-ma, Xích-lắc, 31 Bết Mạc-ca-bốt, Ha-xa Su-sim, Bết Bi-ri, và Sa-a-ra-im. Ðó là những thành của họ cho đến khi Ða-vít làm vua. 32 Các thị trấn của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san – năm thành cả thảy, 33 với tất cả các làng mạc trực thuộc các thành ấy chạy dài cho đến Ba-anh. Ðó là những vùng định cư của họ. Họ giữ một sổ danh bộ cho gia phả của họ.

34 Mê-sô-báp, Giam-lếch, Giô-sa con của A-ma-xi-a, 35 Giô-ên, Giê-hu con của Giô-si-bi-a, con của Sê-ra-gia, con của A-si-ên, 36 Ê-li-ô-ê-nai, Gia-a-cô-ba, Giê-sô-ha-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, 37 Xi-xa con của Si-phi, con của Anh-lôn, con của Giê-đa-gia, con của Sim-ri, con của Sê-ma-gia.

38 Những người danh tánh được nhắc đến ở trên đều là những người lãnh đạo trong gia tộc của họ, và thị tộc của họ đã tăng trưởng rất nhiều. 39 Họ di chuyển về ngỏ vào của miền Ghê-đô, tức về miền đông của thung lũng, để tìm đồng cỏ cho các bầy súc vật của họ. 40 Nơi đó họ đã tìm được đồng cỏ phì nhiêu, xanh tươi, còn xứ thì rộng rãi, tĩnh mịch, và an lành, vì dân cư sống ở đó trước kia là con cháu của Ham.

41 Những người được kể tên ấy đã đến trong xứ đó vào thời Ê-xê-chia vua Giu-đa. Họ tấn công vào các lều của dân Mê-u-nim đang sống ở đó, tận diệt dân ấy cho đến ngày nay, và định cư trong xứ của dân ấy, bởi vì ở đó có đồng cỏ cho các bầy súc vật của họ. 42 Một số người trong vòng họ, năm trăm người của chi tộc Si-mê-ôn, đã đến Núi Sê-i-rơ dưới sự chỉ huy của Pê-la-ti-a, Nê-a-ri-a, Rê-pha-gia, và U-xi-ên, tức các con của I-si. 43 Họ tiêu diệt những người A-ma-léc đã đến trốn tránh ở đó, rồi sống ở đó cho đến ngày nay.

Hê-bơ-rơ 9

So Sánh Sự Thi Hành Chức Vụ Thượng Tế Dưới Ðất và Chức Vụ Thượng Tế Trên Trời

Vậy giao ước thứ nhất cũng có những quy luật thờ phượng và một đền thánh trên đất. Vì trong Ðền Tạm, phòng thứ nhất ở phía trước được gọi là Nơi Thánh, nơi ấy được thiết trí với cây đèn, bàn, và bánh thánh. Phía sau bức màn là một phòng thứ hai được gọi là Nơi Chí Thánh, trong đó có bàn thờ dâng hương bằng vàng và Rương Giao Ước được bọc vàng mọi phía, trong rương có một bình bằng vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn, và các bảng giao ước. Trên nắp rương là các chê-ru-bim oai nghiêm rực rỡ, dang cánh che phủ nắp thi ân. Về những điều ấy thì không cần phải nói từng chi tiết lúc này.

Các vật đó được sắp đặt như thế để các tư tế thường xuyên đi vào phòng thứ nhất của Ðền Tạm hầu cử hành các nghi lễ phụng vụ. Nhưng phòng thứ nhì thì chỉ vị thượng tế mới được vào mỗi năm một lần, và phải luôn đem theo huyết, để dâng lên, chuộc những tội lỗi của ông và của toàn dân đã vô tình phạm.

Ðức Thánh Linh dùng điều đó để cho chúng ta biết rằng ngày nào phòng thứ nhất của Ðền Tạm vẫn còn thì đường vào Nơi Chí Thánh vẫn chưa mở. Ðó là hình bóng của thời hiện tại, thời các lễ vật và các thú vật hiến tế được dâng hiến không thể làm cho lương tâm người thờ phượng được thánh sạch vẹn toàn. 10 Những điều ấy chỉ liên quan đến thức ăn, thức uống, các hình thức tẩy rửa, những luật lệ cho xác thịt được áp đặt cho đến khi có một trật tự mới.

11 Nhưng Ðấng Christ đã đến để làm Vị Thượng Tế của những điều tốt đẹp hơn sắp đến. Ngài đi vào một Ðền Tạm vĩ đại hơn và toàn hảo hơn, không bởi tay loài người dựng nên, tức là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Ngài không nhờ huyết của dê đực và bò đực, nhưng dùng chính huyết Ngài, để vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả, mà thực hiện sự cứu chuộc đời đời. 13 Vì nếu huyết của dê đực và bò đực, cùng tro của bò cái tơ rảy trên những người bị ô uế có thể thánh hóa họ, làm phần xác của họ được tinh sạch, 14 thì huyết của Ðấng Christ, Ðấng nhờ Ðức Thánh Linh đời đời dâng chính Ngài làm con vật hiến tế không tì vết lên Ðức Chúa Trời, tẩy sạch những việc chết khỏi lương tâm chúng ta để chúng ta phục vụ Ðức Chúa Trời hằng sống, có hiệu lực hơn biết dường nào!

Ðấng Christ Lập Giao Ước Mới Bằng Chính Huyết Ngài

15 Vì lý do đó Ngài là Ðấng Trung Gian của giao ước mới, để những người được gọi có thể nhận lãnh cơ nghiệp đời đời đã hứa, vì cái chết đã xảy ra để cứu chuộc những người phạm tội dưới giao ước thứ nhất.

16 Nơi nào có chúc thư thì người lập chúc thư cần phải được xác nhận rằng đã qua đời, 17 vì chúc thư chỉ có hiệu lực khi người lập chúc thư đã qua đời, vì chúc thư không bao giờ được đem ra thi hành khi người lập chúc thư vẫn còn sống. 18 Vì vậy ngay cả giao ước thứ nhất cũng không có hiệu lực nếu không có huyết. 19 Sau khi Môi-se công bố mọi điều răn trong Luật Pháp cho toàn dân, ông đã lấy huyết của bò đực và dê đực, với nước, dây nhung đỏ, và nhánh cây bài hương rảy trên cuộn sách và trên toàn dân, 20 rồi nói rằng,

“Ðây là huyết của giao ước mà Ðức Chúa Trời đã truyền cho anh chị em.”Xuất 24:8

21 Tương tự ông cũng rảy huyết trên Lều Tạm và trên mọi khí dụng được dùng trong việc thờ phượng. 22 Thật vậy theo Luật Pháp hầu hết mọi vật phải nhờ huyết để được tinh sạch, và không có đổ huyết thì không có sự tha thứ.

23 Vậy nếu những gì mô phỏng của những cái có thật trên trời mà còn phải được thanh tẩy như thế, thì chính những cái có thật trên trời càng phải được thanh tẩy bằng các thú vật hiến tế cao quý hơn biết bao. 24 Vì Ðấng Christ đã không vào Nơi Chí Thánh do loài người dựng nên, tức những gì mô phỏng của những cái có thật, nhưng Ngài đã vào chính thiên đàng để hiện nay vì chúng ta xuất hiện trước mặt Ðức Chúa Trời. 25 Không phải Ngài vào đi vào lại nhiều lần để dâng chính Ngài như các vị thượng tế khác phải vào Nơi Chí Thánh hằng năm, mang theo huyết không phải là huyết của mình. 26 Vì nếu không như thế thì từ khi sáng tạo vũ trụ đến nay Ngài đã phải chịu đau đớn nhiều lần rồi; nhưng nay, vào cuối các thời đại, Ngài xuất hiện chỉ một lần đủ cả, dâng chính Ngài làm con vật hiến tế để cất bỏ tội lỗi.

27 Theo như đã định cho loài người, ai cũng phải chết một lần, và sau đó sẽ bị phán xét. 28 Ðấng Christ cũng vậy, sau khi đã dâng chính mình Ngài một lần để mang lấy tội lỗi của nhiều người, Ngài sẽ hiện ra lần thứ hai, không phải để mang lấy tội lỗi, nhưng để cứu những người trông đợi Ngài.

A-mốt 3

Tội Lỗi của I-sơ-ra-ên và Hình Phạt

“Hỡi dân I-sơ-ra-ên, hãy nghe sứ điệp nầy, sứ điệp Chúa đã phán nghịch lại các ngươi,
Tức toàn thể gia tộc Ta đã đem lên khỏi đất Ai-cập,
‘Giữa mọi gia tộc trên thế gian, Ta chỉ chọn các ngươi,
Vì vậy Ta phải hạch tội các ngươi về mọi tội các ngươi đã phạm.’

Hai người không cùng một hướng đi há có thể đồng hành với nhau sao?
Chẳng phải sư tử rống lên trong rừng khi nó không tìm được con mồi sao?
Chẳng phải sư tử tơ gào thét trong hang khi nó không bắt được con mồi sao?
Nếu trong cái bẫy giăng ra trên đất không có mồi để nhử, há có con chim nào sa vào đó chăng?
Nếu không có gì tác động, cái bẫy há tự nhiên bật lên khỏi đất để chẳng bắt được gì chăng?
Khi tiếng kèn thổi lên trong thành báo tin có giặc đến, dân trong thành há không lo sợ sao?
Khi tai họa giáng xuống thành nào, đó chẳng phải là việc Chúa làm hay sao?
Dĩ nhiên Chúa Hằng Hữu sẽ không làm điều gì,
Nếu Ngài không báo trước ý định của Ngài qua các tôi tớ Ngài, các vị tiên tri.
Khi sư tử rống, có ai chẳng sợ chăng?
Khi Chúa Hằng Hữu truyền, có ai dám cưỡng lại mà không nói tiên tri chăng?
Hãy rao lên giữa các lâu đài ở Ách-đốt và giữa các lâu đài trong đất Ai-cập rằng,
Các ngươi khá tụ họp trên các núi ở Sa-ma-ri,
Hãy nhìn xem những cảnh cực kỳ hỗn loạn đang diễn ra ở đó,
Và những cuộc đàn áp dã man đang xảy ra ở đó.
10 Vì những kẻ quyền thế không biết thế nào là làm theo lẽ phải,”
Chúa phán,
“Ðó là những kẻ dùng quyền lực cưỡng đoạt và chất chứa của cải trong các lâu đài của chúng.”

11 Vì vậy Chúa Hằng Hữu phán thế nầy,
“Một kẻ thù sẽ vây hãm xứ,
Nó sẽ diệt trừ sức mạnh của ngươi,
Nó sẽ cướp đi tất cả của cải trong các lâu đài của ngươi.”

12 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy,
“Như người chăn chiên chỉ giựt được hai cái đùi hay một vành tai khỏi mồm sư tử thể nào,
Dân I-sơ-ra-ên ở Sa-ma-ri cũng sẽ được giải thoát như vậy,
Như cái giường còn lại một cái chân hay bộ trường kỷ còn lại một mảnh.”
13 Hãy nghe và hãy làm chứng nghịch lại nhà Gia-cốp,
Chúa Hằng Hữu, Chúa các đạo quân phán,
14 “Trong ngày Ta phạt I-sơ-ra-ên vì tội của nó,
Ta sẽ diệt trừ các bàn thờ của Bê-tên,
Các sừng của bàn thờ sẽ bị chặt đứt và rơi xuống đất.
15 Ta sẽ phá tan cung điện mùa đông và cung điện mùa hè;
Những cung điện bằng ngà sẽ sụp đổ,
Những lâu đài rộng lớn sẽ đổ xuống tan tành,”
Chúa phán.

Thánh Thi 146-147

Chúa Là Ðấng Giúp Ðỡ

Hãy ca ngợi Chúa!
Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi Chúa!
Tôi sẽ ca ngợi Chúa trọn đời mình;
Hễ tôi còn sống bao lâu,
Tôi sẽ ca hát tôn ngợi Ðức Chúa Trời của tôi bấy lâu.

Ðừng để lòng tin cậy vào những người quyền thế;
Ðừng tin cậy loài người là những kẻ không đủ khả năng cứu giúp.
Hơi thở tắt đi, thân xác nó liền trở về cát bụi;
Trong chính ngày đó các toan tính của nó đều tiêu tan.

Phước cho người được Ðức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ mình,
Người đặt hy vọng nơi Chúa, Ðức Chúa Trời mình.

Ngài là Ðấng dựng nên trời và đất,
Biển và mọi vật trong đó.
Ngài giữ sự thành tín đến đời đời.
Ngài thực thi công lý cho người bị áp bức;
Ngài ban bánh cho người đói.
Chúa giải thoát người bị giam cầm.
Chúa mở mắt người bị mù;
Chúa đỡ dậy những ai bị bắt phải sấp mình;
Chúa yêu mến người ngay lành;
Chúa bảo vệ những kiều dân;
Ngài nâng đỡ cô nhi và quả phụ;
Nhưng Ngài phá hỏng đường lối của những kẻ ác.

10 Chúa sẽ trị vì đời đời;
Hỡi Si-ôn, Ðức Chúa Trời của ngươi sẽ trị vì đời đời.
Hãy ca ngợi Chúa!

Ca Tụng Chúa vì Giê-ru-sa-lem Ðược Tái Lập và Thịnh Vượng

Hãy ca ngợi Chúa!
Ca hát chúc tụng Ðức Chúa Trời chúng ta là điều tốt đẹp;
Vì tôn ngợi Ngài là điều vui thỏa và hợp lý dường nào!

Chúa xây dựng lại Giê-ru-sa-lem;
Ngài gom nhóm những người bị tản lạc của I-sơ-ra-ên trở về.
Ngài rịt lành tâm hồn tan vỡ;
Và băng bó các vết thương của họ.
Ngài định số lượng các vì sao;
Ngài gọi chúng theo tên riêng của từng vì sao một.
Chúa chúng ta vĩ đại biết bao!
Quyền năng Ngài thật là vô hạn.
Kiến thức Ngài quả thật vô cùng.
Chúa nhấc đưa những người nghèo khó lên cao,
Nhưng Ngài đánh đổ những kẻ gian ác ngã nhào xuống đất.

Hãy dâng lên Chúa những lời cảm tạ;
Hãy dùng nhạc khí[a] ca ngợi Ðức Chúa Trời.
Ngài bao phủ các tầng trời bằng mây;
Ngài chuẩn bị các trận mưa cho đất;
Ngài khiến cỏ mọc trên các núi đồi.

Ngài ban thực phẩm cho muôn loài cầm thú;
Ngài ban thức ăn cho các quạ con đói bụng kêu gào.
10 Ngài chẳng hài lòng về sức lực của ngựa chiến;
Ngài không vui về đôi chân nhanh nhẹn của loài người;
11 Nhưng Chúa rất vui lòng về những người kính sợ Ngài,
Những người đặt hy vọng vào tình thương của Ngài.

12 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca ngợi Chúa!
Hỡi Si-ôn, hãy tôn ngợi Ðức Chúa Trời!
13 Vì Ngài làm vững mạnh các song sắt ở các cổng thành của ngươi;
Ngài ban phước cho con dân ngươi sống trong ngươi.
14 Ngài ban bình an nơi các biên giới ngươi;
Ngài cho ngươi no thỏa bằng gạo ngon hảo hạng.
15 Ngài truyền lịnh của Ngài cho trái đất;
Lời Ngài phán ra được cấp tốc truyền đi.
16 Ngài ban tuyết xuống phủ trắng như lông chiên;
Ngài rải sương giá ra như tro bụi.
17 Ngài quăng băng giá ra từng mảng;
Ai có thể chịu nổi cơn buốt giá của Ngài?
18 Ngài ban lịnh, chúng liền tan chảy;
Ngài khiến gió thổi qua, nước chảy xuống thành dòng.

19 Ngài tuyên bố lời Ngài cho Gia-cốp,
Luật lệ Ngài và mạng lịnh Ngài cho I-sơ-ra-ên.
20 Ngài chẳng làm như vậy cho một dân nào khác;
Họ chẳng biết gì về các mạng lịnh của Ngài.
Hãy ca ngợi Chúa!

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang