Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Xuất Hành 39

Làm Ê-phót

(Xuất 28:1-14)

39 Người ta dùng chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm may một bộ lễ phục thật trang trọng để dùng khi hành lễ trong Nơi Thánh. Họ may một bộ lễ phục thánh cho A-rôn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Ông làm chiếc ê-phót bằng vàng, chung với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Họ lấy vàng lá, dát mỏng, cắt thành sợi, rồi thêu với chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm trên vải dệt bằng sợi gai mịn, làm thành một tác phẩm rất mỹ thuật. Họ làm hai cầu vai cho ê-phót và nối liền chúng với hai thân ở hai mép. Ðai cột ê-phót cũng được làm bằng các vật liệu đó và với cách đó, tức làm bằng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Họ lấy các viên bạch bảo ngọc có vân đã được cắt mài sẵn, gắn vào các khuôn bằng vàng, rồi khắc vào đó theo cách người ta khắc con dấu tên các con trai của I-sơ-ra-ên. Rồi ông gắn các khuôn đó vào hai cầu vai của ê-phót, để làm các viên ngọc tưởng nhớ các con trai của I-sơ-ra-ên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Làm Túi Ðeo Ngực

(Xuất 28:15-30)

Ông cũng làm túi đeo ngực một cách rất mỹ thuật, như cách làm ê-phót, tức dùng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Túi ấy hình vuông; túi đeo ngực ấy có hai lớp, chiều dọc một gang tay và chiều ngang một gang tay; cả hai lớp đều như thế. 10 Họ gắn vào đó bốn hàng bửu ngọc. Hàng thứ nhất: hồng bửu ngọc, hoàng bích ngọc, và lam bích ngọc; 11 hàng thứ nhì: lam lục ngọc, lam bảo ngọc, và nguyệt quang ngọc; 12 hàng thứ ba: hoàng hồng ngọc, bạch lục ngọc, và tử bửu ngọc; 13 và hàng thứ tư: lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên ngọc ấy được khảm vào những ổ của một khuôn vàng. 14 Có cả thảy mười hai viên ngọc; mỗi viên đều có khắc tên các con trai của I-sơ-ra-ên theo thứ tự. Những viên ngọc đó giống như những con dấu, mỗi viên đều có tên riêng, theo tên mười hai chi tộc.

15 Họ làm những dây chuyền bằng vàng, xoắn lại như kiểu dây thừng, rồi gắn trên túi đeo ngực. 16 Họ làm hai khuôn bằng vàng và hai khoen bằng vàng, rồi gắn hai khoen đó vào hai mép của túi đeo ngực. 17 Họ lấy hai sợi dây chuyền vàng gắn một đầu vào hai khoen ở hai mép của túi đeo ngực. 18 Còn hai đầu kia của hai sợi dây chuyền vàng họ gắn vào phía trước hai khuôn, trên hai cầu vai của ê-phót. 19 Họ làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn chúng vào hai mép, bên lớp trong của túi đeo ngực, tức sát với ê-phót. 20 Họ cũng làm hai khoen bằng vàng khác, rồi gắn chúng vào mặt dưới trước của hai cầu vai ê-phót, nơi chỗ giáp mối, bên trên giải nịt vai của ê-phót. 21 Người ta lấy một rẻo vải xanh dương buộc các khoen vàng của túi đeo ngực với những khoen vàng của ê-phót lại với nhau, để túi đeo ngực nằm bên trên đai của ê-phót, và để túi đeo ngực sẽ không rời khỏi ê-phót, y như Chúa đã truyền cho Môi-se.

May Áo Choàng

(Xuất 28:31-35)

22 Ông làm một chiếc áo choàng dệt toàn bằng chỉ xanh dương để mặc bên dưới ê-phót. 23 Ở giữa áo ấy có một lỗ làm cổ để chui đầu vào như áo giáp; xung quanh cổ được viền lại thật chắc để khỏi rách. 24 Phía dưới lai áo người ta làm những trái lựu bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 25 Người ta cũng làm những chuông nhỏ bằng vàng ròng, rồi đính chúng vào dưới lai áo, xen kẽ giữa những trái lựu quanh lai áo. Họ đính chúng xen kẽ giữa những trái lựu, 26 cứ một cái chuông thì đến một trái lựu, một cái chuông thì đến một trái lựu, quanh dưới lai áo choàng, để mặc vào khi cử hành thánh lễ, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

May Các Lễ Phục

(Xuất 28:40-43)

27 Họ làm cho A-rôn và các con trai ông những áo lễ dài, dệt bằng vải gai mịn, 28 chiếc mũ tế bằng vải gai mịn, các mão phụng vụ bằng vải gai mịn, các quần đùi bằng vải gai, tức vải do sợi gai mịn dệt lại, 29 và đai lưng bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, thêu cách mỹ thuật trên vải gai mịn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Làm Thẻ Thánh

(Xuất 28:36-39)

30 Họ làm một thẻ bằng vàng ròng để làm biểu tượng cho sự thánh khiết, rồi khắc trên đó một hàng chữ như cách khắc con dấu rằng, “Thánh cho Chúa.” 31 Rồi họ dùng một sợi dây làm bằng chỉ xanh dương buộc thẻ đó trên mũ tế, như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Công Việc Ðược Hoàn Tất

(Xuất 35:10-19)

32 Như vậy mọi công việc xây dựng Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, đã hoàn tất. Dân I-sơ-ra-ên đã làm mọi việc y như Chúa đã truyền cho Môi-se. 33 Ðoạn họ trình cho Môi-se mọi vật họ đã làm cho Ðền Tạm: cái lều và mọi dụng cụ cho lều, các móc, các tấm ván tường, các thanh ngang, các cây trụ, các đế trụ, 34 tấm bạt che bên trên bằng da chiên nhuộm đỏ, tấm bạt làm bằng da thượng hạng để che bên trên tấm ấy, bức màn, 35 Rương Giao Ước, các đòn khiêng, và Nắp Thi Ân, 36 bàn thờ dâng bánh, các dụng cụ của bàn thờ, và Bánh Hằng Hiến, 37 cây đèn bằng vàng ròng, các đèn vàng gắn trên cây đèn, mọi dụng cụ cho cây đèn, và dầu thắp đèn, 38 bàn thờ bằng vàng, dầu dùng cho phép xức dầu, và hương thơm, tấm màn chắn nơi cửa vào lều, 39 bàn thờ bằng đồng, rá lưới bằng đồng, các đòn khiêng, và mọi dụng cụ cho bàn thờ đó, cái đỉnh đồng và đế đỉnh, 40 các tấm màn làm tường vải che quanh sân, các cây cột, các đế cột, tấm màn chắn nơi cổng vào sân đền, các dây thừng, các cây cọc, và mọi dụng cụ cần thiết cho sự phụng vụ trong Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, 41 các lễ phục may tuyệt khéo dùng cho sự phụng vụ trong Nơi Thánh, tức bộ lễ phục thánh cho Tư Tế A-rôn, các bộ lễ phục cho các con trai ông để họ mặc vào khi thi hành chức vụ tư tế. 42 Dân I-sơ-ra-ên đã hoàn tất mọi công việc như Chúa đã truyền cho Môi-se. 43 Khi Môi-se thấy họ đã thực hiện xong mọi việc như Chúa đã truyền, ông chúc phước cho họ.

Giăng 18

Chúa Phó Mình cho Kẻ Ác

(Mat 26:47-56; Mác 14:43-50; Lu 22:47-53)

18 Sau khi Ðức Chúa Jesus đã nói những lời ấy, Ngài và các môn đồ Ngài đi qua bên kia Khe Kết-rôn, ở đó có một cái vườn; Ngài và các môn đồ Ngài vào vườn đó. Giu-đa kẻ phản Ngài cũng biết chỗ ấy, vì Ðức Chúa Jesus thường họp với các môn đồ Ngài tại đó. Bấy giờ Giu-đa dẫn một đội lính, cùng thuộc hạ của các trưởng tế và những người Pha-ri-si, mang đèn, đuốc, và vũ khí đến đó.

Ðức Chúa Jesus biết mọi việc sắp xảy đến với Ngài, Ngài bước tới và hỏi, “Các ngươi tìm ai?”

Họ trả lời Ngài, “Jesus người Na-xa-rét.”

Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Chính Ta đây.” Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng đứng chung với họ. Khi Ngài phán với họ, “Chính Ta đây,” họ lùi lại và té xuống đất.

Ngài lại hỏi họ, “Các ngươi tìm ai?”

Họ đáp, “Jesus người Na-xa-rét.”

Ðức Chúa Jesus nói, “Ta đã nói với các ngươi rằng chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm Ta, hãy để những người này đi.”

Như thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói, “Con không làm mất một người nào Cha đã ban cho Con.” Gg 6:39; 17:12

10 Lúc ấy Si-môn Phi-rơ có một thanh gươm; ông rút ra, tấn công một đầy tớ của vị thượng tế, và chém đứt tai phải người ấy; người đầy tớ ấy tên là Man-chu. 11 Ðức Chúa Jesus bảo Phi-rơ, “Hãy tra gươm ngươi vào vỏ. Chén Cha đã trao cho Ta, Ta không uống sao?”

Chúa Bị Áp Giải đến An-nát

(Mat 26:57)

12 Vậy quân lính, viên sĩ quan chỉ huy, và các thuộc hạ của người Do-thái bắt Ðức Chúa Jesus và trói lại. 13 Trước hết, họ giải Ngài đến An-nát,[a] vì ông ấy là nhạc phụ của Cai-a-pha, vị thượng tế năm đó. 14 Cai-a-pha là người đã khuyên dân Do-thái rằng thà một người chịu chết cho toàn dân thì hơn.

Phi-rơ Chối Chúa Lần Thứ Nhất

(Mat 26:69-70; Mác 14:66-68; Lu 22:55-57)

15 Si-môn Phi-rơ với một môn đồ khác đi theo Ðức Chúa Jesus. Nhờ quen biết với vị thượng tế môn đồ đó có thể theo Ðức Chúa Jesus vào sân của dinh thượng tế, 16 nhưng Phi-rơ phải đứng bên ngoài cổng. Người môn đồ quen biết với vị thượng tế đi ra nói với chị gác cổng và đem Phi-rơ vào. 17 Bấy giờ người nữ nô lệ gác cổng nói với Phi-rơ, “Bộ ông không phải là một môn đồ của ông ấy sao?”

Phi-rơ trả lời, “Không phải tôi.”

18 Vì trời lạnh nên các đầy tớ và các thuộc hạ nhóm một đống lửa, rồi đứng sưởi ấm; Phi-rơ cũng đứng sưởi ấm với họ.

Thượng Tế An-nát Chất Vấn Chúa

(Mat 26:59-68; Mác 14:56-65; Lu 22:63-71)

19 Bấy giờ vị thượng tế hạch hỏi Ðức Chúa Jesus về các môn đồ Ngài và về những lời dạy của Ngài. 20 Ðức Chúa Jesus trả lời ông, “Ta từng nói công khai giữa thiên hạ; Ta thường giảng dạy trong các hội đường và đền thờ, là những nơi người Do-thái tụ họp; Ta chẳng nói lén lút điều gì. 21 Tại sao ngươi hỏi Ta? Hãy hỏi những người đã nghe Ta nói với họ. Này, họ biết Ta đã nói những gì.”

22 Khi Ngài đã nói như vậy một tên sĩ quan đứng gần đó tát Ðức Chúa Jesus một cái và nói, “Anh trả lời thượng tế như thế sao?”

23 Ðức Chúa Jesus nói với hắn, “Nếu Ta nói sai, hãy chỉ ra chỗ sai của Ta; còn nếu Ta nói đúng, tại sao ngươi đánh Ta?”

24 An-nát sai giải Ðức Chúa Jesus, vẫn bị trói, đến Cai-a-pha, vị thượng tế đương nhiệm.

Phi-rơ Chối Chúa Hai Lần Nữa

(Mat 26:71-75; Mác 14:69-72; Lu 22:58-62)

25 Khi ấy Si-môn Phi-rơ đang đứng sưởi ấm, chợt có người hỏi ông, “Ông cũng là một môn đồ của ông ấy phải không?”

Phi-rơ chối và nói, “Không phải tôi.”

26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế có bà con với người bị Phi-rơ chém đứt tai nói, “Không phải tôi đã thấy ông trong vườn với ông ấy sao?” 27 Phi-rơ lại chối nữa; ngay lúc đó một con gà cất tiếng gáy.

Chúa Trước Tòa Phi-lát

(Mat 27:11-18, 20-23; Mác 15:2-15;Lu 23:2-3, 18-25)

28 Sáng sớm hôm đó họ giải Ðức Chúa Jesus từ nhà Cai-a-pha đến dinh Tổng Trấn, nhưng chính họ không vào dinh để khỏi bị ô uế hầu có thể ăn Lễ Vượt Qua. 29 Vì thế Phi-lát đi ra gặp họ và hỏi, “Các ngươi cáo buộc người này về tội gì?”

30 Họ trả lời và nói với ông, “Nếu người này không phải là kẻ làm ác, chúng tôi đã không nộp hắn cho quan.”

31 Phi-lát nói với họ, “Các ngươi hãy dẫn người ấy đi và xử theo luật các ngươi.”

Người Do-thái trả lời ông, “Chúng tôi không được phép xử tử ai.” 32 Thế là lời Ðức Chúa Jesus đã nói trước về Ngài sẽ chết cách nào được ứng nghiệm.

33 Phi-lát trở vào dinh, sai điệu Ðức Chúa Jesus đến, và hỏi Ngài, “Ngươi có phải là Vua dân Do-thái không?’

34 Ðức Chúa Jesus trả lời, “Ngươi nói điều này là tự ý ngươi hay đã có ai nói với ngươi về Ta?”

35 Phi-lát trả lời, “Ta không phải là người Do-thái phải không? Chính đồng bào ngươi và các trưởng tế đã nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì?”

36 Ðức Chúa Jesus đáp, “Vương quốc Ta không thuộc về thế gian này. Nếu vương quốc Ta thuộc về thế gian này thì các tôi tớ Ta đã chiến đấu, để Ta không bị nộp vào tay người Do-thái, nhưng vương quốc Ta không từ thế gian này.”

37 Phi-lát hỏi Ngài, “Vậy ngươi là Vua sao?”

Ðức Chúa Jesus trả lời, “Chính ngươi nói rằng Ta là Vua. Vì lý do đó Ta đã được sinh ra, và vì lý do đó Ta đã đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Ta.”

38 Phi-lát nói với Ngài, “Chân lý là gì?”

Sau khi nói như vậy, ông trở ra gặp người Do-thái và nói với họ, “Ta không tìm thấy ông ấy có tội gì. 39 Nhưng các ngươi có được thông lệ này: cứ vào Lễ Vượt Qua, ta thả cho các ngươi một người. Các ngươi muốn ta thả ‘Vua dân Do-thái’ ra không?”

40 Họ gào to lại, “Chớ thả người ấy, nhưng hãy thả Ba-ra-ba.” Vả, Ba-ra-ba là một tên trộm cướp.

Châm Ngôn 15

15 Lời đáp êm dịu làm nguôi cơn giận;
Còn lời xẳng xớm gây phẫn nộ thêm.
Lưỡi người khôn ngoan phát ban tri thức;
Miệng kẻ dại dột thốt chuyện điên rồ.

Mắt Chúa thấy rõ khắp nơi,
Thấy tất cả kẻ xấu và người tốt.
Lưỡi hiền lành là cây sự sống,
Còn lưỡi độc ác làm tan nát tinh thần.
Kẻ dại dột khinh lời cha khuyên dạy;
Còn người khôn nghe lời quở trách khuyên răn.
Trong nhà người ngay lành có nhiều của cải;
Còn trong lợi tức kẻ ác có rắc rối chờ cơ hội xảy ra.
Môi người khôn ngoan loan truyền tri thức;
Còn lòng kẻ dại dột ấm ức nhưng chẳng có kiến thức gì.
Lễ vật của kẻ gian ác là gớm ghiếc trước mặt Chúa,
Nhưng lời cầu nguyện của người ngay lành thì Ngài lại vui lòng.
Ðường lối kẻ gian ác là gớm ghiếc trước mặt Chúa,
Nhưng Ngài yêu thương người đeo đuổi sự ngay lành.
10 Sự nghiêm phạt dành cho kẻ bỏ đường ngay nẻo chánh,
Ai ghét sự khuyên răn chẳng tránh khỏi chết đâu.

11 Ngay cả âm phủ và hỏa ngục mà Chúa còn biết rõ,
Thì huống chi là lòng dạ loài người.
12 Kẻ nhạo báng không thích bị ai quở trách;
Nó tránh đến với người khôn để học sự khôn ngoan.

13 Lòng vui vẻ khiến mặt mày rạng rỡ;
Dạ âu sầu làm tan vỡ tinh thần.
14 Lòng người thông sáng thích kiếm tìm tri thức;
Miệng kẻ dại khờ ưa ẩm thực điên rồ.
15 Kẻ nghèo khó suốt đời chịu khánh kiệt;
Người vui vẻ trong lòng dự yến tiệc luôn luôn.

16 Thà ít của mà kính sợ Chúa,
Hơn của cải nhiều mà rắc rối ùa theo.
17 Thà ăn cơm với rau mà thương yêu nhau,
Hơn là ăn thịt bò mập béo mà ghen ghét cặp theo.
18 Người nóng tính dễ gây xung đột;
Còn người chậm nóng giận làm cuộc cãi lộn nguôi đi.
19 Đường kẻ biếng nhác gai góc mọc đầy cản trở;
Còn lối người ngay lành lại mở rộng thênh thang.
20 Ðứa con khôn ngoan làm cho cha vui vẻ;
Còn kẻ dại dột lại khinh rẻ mẹ mình.
21 Kẻ kém hiểu biết cho sự điên dại là vui;
Nhưng người có trí tuệ cứ bước theo đường chính đáng.

22 Thiếu bàn luận các chương trình bị hỏng,
Nhưng với mưu sĩ nhiều chúng có triển vọng thành công.
23 Lời đáp hay làm mọi người vui thích;
Lời đáp hay đúng lúc thật bổ ích biết bao!
24 Người khôn ngoan bước theo con đường sự sống dẫn đi lên,
Ðể giữ người ấy tránh xa âm phủ ở phía dưới.
25 Chúa phá hủy nhà của kẻ kiêu ngạo;
Nhưng Ngài bảo vệ địa giới của người góa bụa.
26 Ý đồ của kẻ gian ác là gớm ghiếc trước mặt Chúa;
Nhưng lời của người trong sạch được đẹp lòng Ngài.
27 Kẻ tham lợi bất nghĩa chuốc lấy rắc rối cho nhà mình;
Nhưng ai ghét của hối lộ sẽ tiếp tục sống còn.
28 Người ngay lành suy nghĩ trong lòng rồi mới đáp;
Còn miệng kẻ gian ác vội nói những lời độc ác hại người.
29 Chúa thật cách xa đối với phường gian ác,
Nhưng Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của người ngay lành.
30 Ánh mắt hân hoan phản ánh lòng vui vẻ,
Tin tức vui mừng làm mạnh khỏe cốt xương.
31 Tai chịu lắng nghe những lời quở trách về cuộc sống,
Người ấy sẽ ở giữa các bậc hiền triết khôn ngoan.
32 Kẻ từ chối nghe lời chỉ giáo khinh bỉ linh hồn mình,
Nhưng ai chịu nghe lời khuyên bảo sẽ được sự thông sáng.
33 Kính sợ Chúa là cách giáo dục khôn ngoan,
Ðức khiêm nhường đi trước sự tôn trọng.

Phi-líp 2

Khuyên Phải Hiệp Nhất và Khiêm Nhường

Vậy nếu có sự khích lệ nào trong Ðấng Christ, nếu có niềm yên ủi nào từ tình yêu, nếu có sự hiệp thông nào của Ðức Thánh Linh, nếu có tình cảm quý mến và sự thương cảm nào, xin anh chị em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn bằng cách hiệp ý với nhau, có cùng một tình yêu, đồng tâm, nhất trí với nhau. Xin anh chị em đừng làm điều gì vì tư lợi hay vì hư vinh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường, xem người khác tôn trọng hơn mình. Xin mỗi người đừng chỉ chú ý đến quyền lợi của riêng mình, nhưng hãy chú ý đến quyền lợi của người khác nữa.

Anh chị em hãy có cùng một tâm tình như Ðức Chúa Jesus Christ đã có.

Ngài vốn có hình thể của Ðức Chúa Trời,
Nhưng đã chẳng xem sự bình đẳng với Ðức Chúa Trời là điều phải nắm giữ.
Ngài đã làm cho mình trống không,
Nhận lấy hình thể của một nô lệ,
Trở nên giống như loài người,
Ðược thấy trong hình dạng như một người.
Ngài tự hạ mình xuống,
Vâng phục cho đến chết,
Thậm chí chết trên cây thập tự.
Chính vì thế mà Ðức Chúa Trời đã đưa Ngài lên rất cao,
Ban cho Ngài danh trên hết mọi danh,
10 Hầu khi nghe đến danh Ðức Chúa Jesus,
Mọi đầu gối trên trời, trên đất, và bên dưới đất thảy đều quỳ xuống,
11 Và mọi lưỡi phải tuyên xưng Ðức Chúa Jesus Christ là Chúa,
Dâng vinh hiển lên Ðức Chúa Trời là Ðức Chúa Cha.

Rạng Rỡ Như Vì Sao

12 Vậy thưa anh chị em yêu dấu, như anh chị em vẫn luôn vâng lời tôi, không phải chỉ khi tôi có mặt, nhưng càng vâng lời hơn, nhất là lúc nầy, khi tôi vắng mặt, hãy thực hiện ơn cứu rỗi của mình với lòng sợ sệt và run rẩy, 13 vì Ðức Chúa Trời là Ðấng đang hành động trong anh chị em, anh chị em có thể vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.

14 Hãy làm mọi việc không với thái độ lằm bằm và cãi vã, 15 để anh chị em được trọn vẹn và tinh ròng, xứng đáng làm con cái Ðức Chúa Trời, không chút hoen ố giữa thế hệ lươn lẹo và đồi trụy nầy; giữa thế hệ đó anh chị em tỏa sáng như những vì sao trong không gian, 16 nắm chặt lời sự sống, để tôi có thể hãnh diện trong ngày của Ðấng Christ rằng tôi đã không chạy vô ích và không làm việc vất vả luống công.

17 Ví dù tôi phải đổ mạng sống mình ra như một của lễ quán để rưới trên con vật hiến tế và sự phục vụ phát xuất từ đức tin của anh chị em, tôi cũng vui lòng, và chung vui với tất cả anh chị em. 18 Xin anh chị em cũng vậy, hãy vui mừng và chung vui với tôi.

Giới Thiệu Ti-mô-thê và Ê-páp-rô-đi-tô

19 Nhờ ơn Ðức Chúa Jesus tôi hy vọng có thể phái Ti-mô-thê đến với anh chị em sớm, để tôi có thể được phấn khởi khi biết tin tức về anh chị em như thể nào. 20 Tôi không có ai có cùng một tâm tình với tôi như Ti-mô-thê, một người thật lòng lo lắng cho anh chị em, 21 vì ai nấy lo đều tìm lợi riêng cho mình chứ không cho lợi ích của Ðức Chúa Jesus Christ. 22 Nhưng như anh chị em biết, Ti-mô-thê đã chứng tỏ là một người rất xứng đáng; anh ấy đã cùng tôi phục vụ Tin Mừng như con với cha vậy. 23 Vì thế tôi hy vọng rằng tôi có thể phái Ti-mô-thê đi ngay sau khi tôi biết sự việc của tôi ra thế nào. 24 Tôi tin tưởng trong Chúa rằng không bao lâu nữa chính tôi cũng sẽ đến với anh chị em.

25 Trong khi chờ đợi tôi nghĩ cần phải nhờ Ê-páp-rô-đi-tô về với anh chị em trước. Anh ấy là một anh em, một bạn đồng lao, và một chiến hữu của tôi; anh ấy cũng là sứ giả của anh chị em, và là người đã lo cho những nhu cầu của tôi, 26 bởi vì anh ấy rất nhớ tất cả anh chị em và cũng hơi lo lắng vì anh chị em đã nghe tin anh ấy bị bịnh. 27 Quả thật anh ấy có bịnh nặng, gần qua đời, nhưng Ðức Chúa Trời đã tỏ lòng thương xót đối với anh ấy, không những chỉ đối với anh ấy nhưng cũng với tôi nữa, kẻo tôi ở trong cảnh đã buồn mà lại thêm buồn. 28 Cho nên tôi càng muốn phái anh ấy sớm trở về với anh chị em, để khi gặp lại anh ấy, anh chị em sẽ vui mừng và tôi cũng được bớt lo. 29 Vậy xin anh chị em hãy vui vẻ đón tiếp anh ấy trong Chúa, và hãy tỏ lòng tôn kính những người như thế, 30 vì công việc của Ðấng Christ mà suýt nữa anh ấy đã thiệt mạng. Anh ấy suýt đã hy sinh tính mạng vì thay cho anh chị em giúp đỡ tôi những việc mà anh chị em không thể đến giúp được.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang