Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 35-36

Gia-cốp Trở Lại Bê-tên

35 Ðức Chúa Trời phán với Gia-cốp, “Hãy đứng dậy, đi lên Bê-tên và định cư tại đó. Hãy xây một bàn thờ để thờ phượng Ðức Chúa Trời, Ðấng đã hiện ra với ngươi khi ngươi chạy trốn khỏi Ê-sau anh ngươi.”

Gia-cốp nói với gia đình ông và mọi người thuộc về ông, “Hãy dẹp bỏ các tượng thần dân ngoại ở giữa các người. Hãy thanh tẩy sạch sẽ, và mặc y phục sạch vào. Sau đó hãy đến; chúng ta hãy đi lên Bê-tên để cha có thể xây một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời tại đó. Ngài là Ðấng đã đáp lời cha trong ngày cha gặp gian truân và luôn ở với cha bất cứ nơi nào cha đặt chân đến.” Vậy họ trao cho Gia-cốp tất cả các tượng thần dân ngoại họ có, và những vòng trang sức đeo nơi tai họ. Gia-cốp chôn tất cả những thứ đó dưới gốc cây sồi gần Si-chem.

Khi họ lên đường, Ðức Chúa Trời giáng một cơn kinh hãi xuống các thành xung quanh họ, nên không ai dám đuổi theo các con của Gia-cốp. Gia-cốp và đoàn người đi với ông đến Lu-xơ, cũng gọi là Bê-tên, trong xứ Ca-na-an. Tại đó ông dựng một bàn thờ và gọi nơi đó là Ên Bê-tên,[a] vì nơi đó Ðức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho ông khi ông trốn khỏi Ê-sau anh ông. Bấy giờ Ðê-bô-ra bà vú của Rê-be-ca qua đời. Bà được chôn bên gốc cây sồi tại Si-chem, vì thế chỗ đó được gọi là Cây Sồi Than Khóc.

Ðức Chúa Trời lại hiện ra với Gia-cốp khi ông từ xứ Pa-đan A-ram trở về. Ngài ban phước cho ông. 10 Ðức Chúa Trời phán với ông, “Tên ngươi là Gia-cốp, nhưng ngươi sẽ không được gọi là Gia-cốp nữa; từ nay tên ngươi sẽ là I-sơ-ra-ên.” Vì thế ông được gọi là I-sơ-ra-ên. 11 Ðức Chúa Trời phán với ông, “Ta là Ðức Chúa Trời Toàn Năng.[b] Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, để một quốc gia và một cộng đồng của nhiều quốc gia sẽ ra từ ngươi, và các vua sẽ ra từ ngươi. 12 Ta sẽ ban cho ngươi xứ Ta đã ban cho Áp-ra-ham và I-sác. Ta sẽ ban xứ ấy cho dòng dõi ngươi sinh ra sau này.” 13 Sau đó Ðức Chúa Trời từ nơi ấy, tức từ chỗ Ngài đã phán với ông, ngự lên. 14 Gia-cốp dựng một trụ đá nơi Ngài đã phán với ông. Ông đổ rượu lên trụ để dâng làm của lễ; sau đó ông đổ dầu lên trụ để biến trụ đá ấy ra thánh. 15 Gia-cốp gọi nơi Ðức Chúa Trời đã phán với ông là Bê-tên.

Bên-gia-min Ra Ðời và Ra-chên Qua Ðời

16 Sau đó họ rời Bê-tên ra đi. Khi họ còn cách Ép-rát không bao xa thì Ra-chên đến ngày sinh con, nhưng bà sinh khó. 17 Trong lúc bà đang đau đớn vì khó sinh, bà mụ nói, “Xin bà đừng sợ, vì bà sắp có một con trai nữa.” 18 Khi sắp tắt hơi, vì bà đang hấp hối, bà đặt tên nó là Bên Ô-ni,[c] nhưng cha nó gọi nó là Bên-gia-min.[d] 19 Ra-chên qua đời và được chôn bên đường đi đến Ép-rát hay Bết-lê-hem. 20 Gia-cốp dựng một bia đá nơi mộ bà, đó là bia đá của mộ Ra-chên. Bia đá ấy vẫn còn đó đến ngày nay. 21 I-sơ-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình, và khi qua khỏi Tháp Ê-đe một khoảng thì ông dựng lều.

22 Trong thời gian I-sơ-ra-ên cư ngụ trong xứ ấy, Ru-bên đã đến và nằm với Bin-ha, vợ hầu của cha chàng, và người ta báo cho I-sơ-ra-ên hay việc đó.

Các Con của Gia-cốp

(1 Sử 2:1-2)

Ðây là mười hai con trai của Gia-cốp: 23 Các con trai do Lê-a sinh là Ru-bên con đầu lòng của Gia-cốp, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, I-sa-ca, và Xê-bu-lun. 24 Các con trai của Ra-chên là Giô-sép và Bên-gia-min. 25 Các con trai của Bin-ha nữ tỳ của Ra-chên là Ðan và Náp-ta-li. 26 Các con trai của Xinh-pa nữ tỳ của Lê-a là Gát và A-se. Ðó là các con trai của Gia-cốp, những đứa con ông sinh được khi còn ở Pa-đan A-ram.

I-sác Qua đời

27 Gia-cốp đến thăm cha ông là I-sác tại Mam-rê, trong vùng Ki-ri-át Ạc-ba, tức là Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và I-sác sống như những kiều dân. 28 I-sác hưởng thọ một trăm tám mươi tuổi. 29 I-sác trút hơi thở cuối cùng, qua đời, và được quy về với tổ tiên ông trong lúc tuổi đã cao. Ông hưởng trọn tuổi thọ của ông. Các con ông là Ê-sau và Gia-cốp mai táng ông.

Gia Ðình của Ê-sau Di Cư

36 Ðây là gia đình của Ê-sau, tức là Ê-đôm. Ê-sau cưới các thiếu nữ Ca-na-an làm vợ: A-đa con gái của Ê-lôn người Hít-ti, Ô-hô-li-ba-ma con gái của A-na cháu của Xi-bê-ôn người Hi-vi, và Ba-sê-mát con gái của Ích-ma-ên, em gái của Nê-ba-giốt. A-đa sinh Ê-li-pha cho Ê-sau, Ba-sê-mát sinh Rê-u-ên, còn Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-úc, Gia-lam, Cô-ra. Ðó là các con trai của Ê-sau, do các vợ ông sinh cho ông trong xứ Ca-na-an.

Ê-sau dẫn các vợ, các con trai, các con gái, và mọi người trong gia đình ông, cùng tất cả đàn súc vật, gia súc, và tất cả của cải ông đã gây dựng được trong xứ Ca-na-an đến một xứ khác, cách xa Gia-cốp em ông. Vì tài sản của họ quá nhiều, không thể sống chung với nhau được. Xứ họ đang sống không thể cung cấp đủ đồng cỏ cho các đàn súc vật của họ. Vậy Ê-sau định cư trên miền đồi núi của vùng Sê-i-rơ. Ê-sau tức là Ê-đôm.

Dòng Dõi của Ê-sau

(1 Sử 1:35-37)

Sau đây là dòng dõi của Ê-sau, tổ phụ người Ê-đôm, ở miền đồi núi vùng Sê-i-rơ. 10 Ðây là tên các con trai của Ê-sau: Ê-li-pha con của bà A-đa vợ Ê-sau; Rê-u-ên con của bà Ba-sê-mát vợ Ê-sau.

11 Các con trai của Ê-li-pha là Tê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tam, và Kê-na. 12 Tim-ma vợ hầu của Ê-li-pha con trai Ê-sau sinh A-ma-léc cho Ê-li-pha. Ðó là các cháu nội của bà A-đa vợ Ê-sau.

13 Ðây là các con trai của Rê-u-ên: Na-hát, Xê-ra, Sam-ma, và Mít-xa. Ðó là các cháu nội của bà Ba-sê-mát vợ Ê-sau.

14 Ðây là các con trai của bà Ô-hô-li-ba-ma vợ Ê-sau, con gái của A-na, cháu ngoại của Xi-bê-ôn. Bà sinh cho Ê-sau: Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.

Các Tộc Trưởng Dân Ê-đôm

15 Ðây là các tộc trưởng của con cháu Ê-sau: Các con trai của Ê-li-pha con đầu lòng của Ê-sau là Tộc Trưởng Tê-man, Tộc Trưởng Ô-ma, Tộc Trưởng Xê-phô, Tộc Trưởng Kê-na, 16 Tộc Trưởng Cô-ra, Tộc Trưởng Ga-tam,[e] và Tộc Trưởng A-ma-léc. Ðó là các tộc trưởng ra từ Ê-li-pha trong xứ Ê-đôm. Những tộc trưởng ấy là con cháu của bà A-đa.

17 Ðây là các con trai của Rê-u-ên con trai Ê-sau: Tộc Trưởng Na-hát, Tộc Trưởng Xê-ra, Tộc Trưởng Sam-ma, và Tộc Trưởng Mít-xa. Ðó là các tộc trưởng ra từ Rê-u-ên trong xứ Ê-đôm. Những tộc trưởng ấy là con cháu của bà Ba-sê-mát vợ Ê-sau.

18 Ðây là các con trai của Ô-hô-li-ba-ma vợ Ê-sau: Tộc Trưởng Giê-úc, Tộc Trưởng Gia-lam, và Tộc Trưởng Cô-ra. Ðó là những tộc trưởng do Ô-hô-li-ba-ma vợ Ê-sau, con gái của A-na, sinh ra.

19 Ðó là các con trai của Ê-sau, tức Ê-đôm, và đó là những tộc trưởng của họ.

Dòng Dõi của Sê-i-rơ Người Hô-ri

(1 Sử 1:38-42)

20 Ðây là các con trai của Sê-i-rơ người Hô-ri, dân ở địa phương đó: Lô-tan, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, 21 Ði-sôn, Ê-xe, và Ði-san. Ðó là các con trai của Sê-i-rơ. Họ là các tộc trưởng của người Hô-ri trong xứ Ê-đôm.

22 Các con trai của Lô-tan là Hô-ri và Hê-man; em gái của Lô-tan là Tim-na.

23 Ðây là các con trai của Sô-banh: Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và Ô-nam.

24 Ðây là các con trai của Xi-bê-ôn: Ai-gia và A-na. A-na là người đã tìm ra các suối nước nóng trong đồng hoang khi chăn lừa cho cha ông là Xi-bê-ôn.

25 Ðây là các con của A-na: Ði-sôn và Ô-hô-li-ba-ma. Ô-hô-li-ba-ma là con gái của A-na.

26 Ðây là các con trai của Ði-sôn: Hem-đan, Ếch-ban, Ít-ran, và Kê-ran.

27 Ðây là các con trai của Ê-xe: Bin-han, Xa-a-van, và A-can.

28 Ðây là các con trai của Ði-san: U-xơ và A-ran.

29 Ðây là các tộc trưởng của dân Hô-ri: Tộc Trưởng Lô-tan, Tộc Trưởng Sô-banh, Tộc Trưởng Xi-bê-ôn, Tộc Trưởng A-na, 30 Tộc Trưởng Ði-sôn, Tộc Trưởng Ê-xe, và Tộc Trưởng Ði-san. Ðó là các tộc trưởng của người Hô-ri, theo từng thị tộc của họ, trong xứ Sê-i-rơ.

Các Vua Ê-đôm

(1 Sử 1:43-50)

31 Ðây là các vua trị vì trong xứ Ê-đôm, trước khi có một vua nào trị vì trên các con cái I-sơ-ra-ên:

32 Bê-la con trai Bê-ô trị vì ở Ê-đôm. Kinh đô của ông là Ðin-ha-ba.

33 Bê-la băng hà, Giô-báp con trai Xê-ra ở Bô-ra lên ngai kế vị.

34 Giô-báp băng hà, Hu-sam, quê ở xứ Tê-man, lên ngai kế vị.

35 Hu-sam băng hà, Ha-đát con trai Bê-đát lên ngai kế vị. Vua Ha-đát đánh bại quân Mi-đi-an trong một cánh đồng ở Mô-áp. Kinh đô của ông là A-vít.

36 Ha-đát băng hà, Sam-la quê ở Mách-rê-ca lên ngai kế vị.

37 Sam-la băng hà, Sa-un quê ở Rê-hô-bốt, một địa danh bên bờ sông, lên ngai kế vị.

38 Sa-un băng hà, Ba-anh Ha-nan con trai Ách-bơ lên ngai kế vị.

39 Ba-anh Ha-nan con trai Ách-bơ băng hà, Ha-đa lên ngai kế vị. Kinh đô của ông là Pa-u. Vợ ông tên là Mê-hê-ta-bên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại của Mê Xa-háp.

Kể Thêm Các Tộc Trưởng Ê-đôm

(1 Sử 1:51-54)

40 Ðây là tên các tộc trưởng ra từ Ê-sau, theo gia tộc và địa phương mang danh họ: Tộc Trưởng Tim-na, Tộc Trưởng Anh-va, Tộc Trưởng Giê-thết, 41 Tộc Trưởng Ô-hô-li-ba-ma, Tộc Trưởng Ê-la, Tộc Trưởng Pi-nôn, 42 Tộc Trưởng Kê-na, Tộc Trưởng Tê-man, Tộc Trưởng Míp-xa, 43 Tộc Trưởng Mạc-đi-ên, và Tộc Trưởng I-ram.

Ðó là các tộc trưởng của người Ê-đôm, theo nơi họ cư trú trong xứ thuộc quyền sở hữu của họ. Ê-sau là tổ phụ của người Ê-đôm.

Mác 6

Chúa Bị Khước Từ ở Na-xa-rét

(Mat 13:53-58; Lu 4:16-30)

Ngài rời nơi đó trở về thị trấn quê hương của Ngài, có các môn đồ Ngài đi theo. Ðến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe đã ngạc nhiên và nói, “Do đâu người này có được những điều ấy? Người này được ban cho sự khôn ngoan gì thế? Làm sao tay người này có thể làm được những phép lạ như thế? Ông ấy chẳng phải là người thợ mộc con trai của Ma-ry và là anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đa, và Si-môn sao? Chẳng phải các em gái của ông ấy đang sống giữa chúng ta sao?” Họ khó có thể chấp nhận Ngài.

Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Một tiên tri không thiếu sự tôn trọng, ngoại trừ ở quê hương mình, giữa vòng bà con mình, và trong gia đình mình.” Ngài không làm những việc quyền năng ở đó, ngoại trừ đặt tay trên vài người bịnh và chữa lành họ. Ngài lấy làm lạ vì lòng vô tín của họ. Sau đó Ngài đến các làng quanh vùng để giảng dạy.

Chúa Sai Mười Hai Sứ Ðồ Ra Ði

(Mat 10:5-15; Lu 9:1-6)

Ngài gọi mười hai sứ đồ đến và bắt đầu sai họ đi ra từng đôi một. Ngài ban cho họ quyền năng trên các tà linh ô uế. Ngài bảo họ đừng đem gì theo cho cuộc hành trình, ngoại trừ một cây gậy; không bánh, không túi đi đường, không tiền bạc trong thắt lưng, chỉ mang một đôi giày, và không mặc hai chiếc áo. 10 Ngài dặn họ, “Khi các ngươi được nhà nào tiếp, hãy ở đó cho đến khi rời nơi ấy. 11 Nơi nào không hoan nghinh các ngươi hoặc từ chối nghe lời các ngươi, khi rời nơi đó hãy phủi bụi đã dính dưới chân các ngươi để làm chứng nghịch lại họ.”

12 Vậy các môn đồ ra đi rao giảng rằng mọi người phải ăn năn. 13 Họ đuổi trừ nhiều quỷ, xức dầu trên nhiều người bịnh, và chữa lành những người ấy.

Giăng Báp-tít Qua Ðời

(Mat 14:1-12; Lu 9:7-9)

14 Vua Hê-rốt[a] được báo cáo việc ấy, vì danh tiếng của Ngài đã vang lừng khắp nơi. Có người tâu rằng, “Ấy là Giăng Báp-tít đã từ cõi chết sống lại nên mới có thể làm những phép lạ như thế.” 15 Nhưng những người khác bảo, “Ấy là Ê-li.” Những người khác nữa lại nói, “Ấy là một đấng tiên tri như các đấng tiên tri thời xưa.” 16 Nhưng khi nghe thế Hê-rốt nói, “Giăng, người ta đã chặt đầu, đã sống lại đó.”

17 Số là chính Hê-rốt đã sai người bắt Giăng đem xiềng trong ngục, vì vụ Hê-rô-đia vợ của Phi-líp anh ông, bởi ông đã lấy bà ấy làm vợ. 18 Vì Giăng đã nói với Hê-rốt, “Ngài lấy vợ của anh ngài là điều không hợp với đạo lý.” 19 Do đó bà Hê-rô-đia rất căm ghét Giăng và tìm cách giết ông, nhưng bà không thể thực hiện được, 20 vì Hê-rốt sợ Giăng. Ông biết Giăng là một người ngay lành và thánh thiện, nên ông bảo vệ Giăng. Mỗi lần được nghe Giăng nhắc nhở, ông rất áy náy, dầu vậy, ông vẫn thích nghe Giăng khuyên bảo.

21 Nhưng một ngày kia, cơ hội đã đến với bà, khi Hê-rốt tổ chức một dạ tiệc để mừng sinh nhật của ông và mời các triều thần, các tướng lãnh, và những người quyền quý trong miền Ga-li-lê đến dự. 22 Con gái của bà Hê-rô-đia vào và nhảy múa khiến cho Hê-rốt và quan khách dự tiệc mê mẩn tâm thần. Vua nói với cô gái ấy, “Hãy xin ta bất cứ điều gì ngươi muốn, ta sẽ ban cho.” 23 Ông lại long trọng thề với nàng, “Bất cứ điều gì ngươi xin, ta sẽ ban cho, dầu đến nửa nước cũng được.”

24 Cô ấy đi ra hỏi mẹ nàng, “Con nên xin gì?”

Bà ấy bảo, “Cái đầu của Giăng Báp-tít.”

25 Cô ấy liền vội vàng đi vào và tâu với vua, “Tiện nữ muốn bệ hạ cho tiện nữ cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.” 26 Vua rất ân hận, nhưng vì ông đã lỡ thề trước mặt các quan khách, ông không thể từ chối lời yêu cầu của nàng. 27 Vua liền sai một đao phủ đi và truyền đem đầu của Giăng đến. Viên đao phủ đi, chặt đầu Giăng trong ngục, 28 bưng đầu Giăng trên một cái mâm, và đem đến cô gái; cô gái bưng mâm đó đến mẹ cô. 29 Nghe tin ấy, các môn đồ của Giăng đến, lấy xác ông đem đi, và chôn trong một ngôi mộ.

Chúa Hóa Bánh cho Năm Ngàn Người Ăn

(Mat 14:13-21; Lu 9:10-17; Gg 6:1-14)

30 Các sứ đồ tụ về quanh Ðức Chúa Jesus và tường trình với Ngài mọi điều họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài nói với họ, “Chính các ngươi hãy lánh vào một nơi vắng vẻ để nghỉ một lúc.” Vì có rất nhiều người tới lui đến nỗi họ không có thì giờ để ăn. 32 Vậy họ xuống thuyền và chèo đến một nơi hoang vắng. 33 Nhưng khi dân chúng thấy họ chèo thuyền đi và đoán biết nơi nào họ sẽ đến, nhiều người từ các thành đã chạy bộ đến đó trước họ.

34 Vì thế vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy một đoàn dân rất đông đang đợi sẵn. Ngài động lòng thương xót họ, vì họ như đàn chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Khi ấy trời đã khá xế chiều, các môn đồ đến thưa với Ngài, “Nơi đây thật hoang vắng, và trời cũng đã quá xế chiều, 36 xin Thầy cho họ giải tán để họ có thể vào các thôn xóm và làng mạc quanh đây mua thức ăn cho họ.”

37 Ngài trả lời họ, “Chính các ngươi phải cho họ ăn.”

Họ đáp, “Chúng con phải đi và mua hai trăm đơ-na-ri[b] tiền bánh cho họ ăn sao?

38 Ngài hỏi họ, “Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi và xem thử coi.”

Khi biết được rồi họ nói, “Thưa có năm cái bánh và hai con cá.”

39 Ngài truyền cho họ bảo mọi người ngồi xuống thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Vậy họ ngồi xuống thành những nhóm một trăm người hoặc năm mươi người. 41 Ðoạn Ngài cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ bánh ra, và trao cho các môn đồ để họ phát cho dân. Ngài cũng phát hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Họ gom lại được mười hai giỏ đầy bánh vụn và cá dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn đàn ông.

Chúa Ði Bộ Trên Mặt Nước

(Mat 14:22-33; Gg 6:15-21)

45 Liền sau đó Ngài bảo các môn đồ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, tức về hướng Thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài ở lại để giải tán đám đông. 46 Sau khi tiễn chào họ, Ngài lên núi để cầu nguyện. 47 Tối đến thuyền đã ra giữa biển, còn Ngài đang ở trên đất một mình. 48 Ngài thấy các môn đồ chèo chống vất vả vì phải đương đầu với gió ngược; khoảng canh tư đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến với họ, và dường như Ngài muốn qua mặt họ. 49 Khi thấy Ngài đi bộ trên mặt biển, họ tưởng là ma, nên la thét lên, 50 vì tất cả họ đều thấy Ngài và cực kỳ sợ hãi. Nhưng ngay lập tức Ngài bảo họ, “Hãy yên lòng, Ta đây, đừng sợ.”

51 Ngài bước lên thuyền với họ, và gió yên biển lặng. Các môn đồ vô cùng kinh ngạc; 52 số là họ vẫn chưa hiểu nổi phép lạ hóa bánh ra nhiều vừa rồi, vì lòng họ vẫn còn cứng cỏi.

Chúa Chữa Bịnh ở Ghê-nê-sa-rết

(Mat 14:34-36)

53 Khi họ đã qua bên kia biển, họ cho thuyền cập vào bờ ở Ghê-nê-sa-rết và thả neo tại đó. 54 Vừa khi họ ra khỏi thuyền, dân địa phương liền nhận ra Ngài. 55 Họ chạy đi báo tin khắp miền đó, và người ta bắt đầu khiêng những người bịnh nằm trên cáng đến với Ngài. Hễ họ nghe Ngài ở đâu, họ khiêng các bịnh nhân đến đó. 56 Bất cứ Ngài vào các làng mạc, thị trấn, hay thôn xóm nào, người ta đem những người đau yếu bịnh tật đến chợ ở nơi đó và xin Ngài cho họ được chạm vào viền áo Ngài. Tất cả ai chạm đến Ngài đều được chữa lành.

Gióp 2

Sa-tan Tấn Công Sức Khỏe của Gióp

Một ngày kia các con của Ðức Chúa Trời đến trình diện trước mặt Chúa, và Sa-tan cũng đến giữa họ để trình diện trước mặt Chúa. Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi ở đâu đến?”

Sa-tan trả lời với Chúa, “Tôi đi tới đi lui khắp đất và đi lên đi xuống ở đó.”

Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi có thấy tôi tớ Ta là Gióp chăng? Thật không một người nào trên đất được như nó. Nó quả là một người trọn vẹn và ngay thẳng, một người kính sợ Ðức Chúa Trời và lánh xa điều ác. Nó vẫn giữ vững lòng liêm chính của nó, dù ngươi đã giục Ta chống lại nó và gây thiệt hại cho nó một cách vô cớ.”

Bấy giờ Sa-tan trả lời với Chúa, “Da đền da! Tất cả những gì người ta có họ có thể bỏ hết, miễn sao giữ được mạng mình. Nhưng bây giờ nếu Ngài đưa tay ra đụng vào xương vào thịt ông ấy, gây hại đến sức khỏe ông ấy, ông ấy sẽ nguyền rủa vào mặt Ngài ngay.”

Chúa phán với Sa-tan, “Thôi được, Ta cho ngươi được quyền đụng đến thân thể nó, nhưng ngươi không được làm hại đến tính mạng nó.”

Vậy Sa-tan đi ra khỏi thánh nhan Chúa và hành hạ Gióp, khiến ông bị ung độc lở loét từ bàn chân đến đỉnh đầu. Ông phải ngồi giữa đám tro, lấy mảnh sành, và gãi.

Bấy giờ vợ ông nói với ông, “Ðến giờ nầy mà anh vẫn còn giữ lòng liêm chính của anh sao? Anh hãy nguyền rủa Ðức Chúa Trời và chết quách cho rồi!”

10 Nhưng ông trả lời bà, “Sao em nói như một bà điên vậy? Khi Ðức Chúa Trời đưa tay ban phước, chúng ta đã biết đón nhận; bây giờ Ngài giáng họa, chúng ta lại không biết nhận lãnh sao?” Trong mọi sự đó Gióp không để cho lời nói ra từ miệng ông làm cho ông mang tội.

Ba Bạn của Gióp Ðến Thăm

11 Bấy giờ, khi ba bạn của Gióp, Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Xô-pha người Na-a-mát, nghe tin về mọi tai họa xảy đến với ông, mỗi người lên đường đến thăm ông. Họ hẹn gặp nhau và cùng đến nhà ông để chia buồn và an ủi ông. 12 Khi thấy ông ở đàng xa, họ không thể nhận ra ông, đến khi biết đúng là ông rồi, họ bật khóc lớn tiếng. Họ xé rách áo choàng họ đang mặc, rồi hốt bụi tung lên trời, và để bụi rơi xuống đầu họ. 13 Họ ngồi xuống đất với ông bảy ngày và bảy đêm. Không ai thốt được một lời nào với ông, vì họ thấy nỗi đau đớn của ông quá lớn.

Rô-ma 6

ÐỜI MỚI CỦA NGƯỜI ÐƯỢC XƯNG CÔNG CHÍNH

(6:1 - 8:39)

Chết Ðối Với Tội Lỗi, Sống Lại Với Ðấng Christ

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng có thể gia tăng chăng? Chẳng hề như vậy! Làm thể nào chúng ta đã chết đối với tội lỗi còn có thể tiếp tục sống trong tội lỗi? Hay anh chị em không biết rằng khi tất cả chúng ta chịu báp-têm trong Ðức Chúa Jesus Christ, chúng ta đã chịu báp-têm vào sự chết của Ngài sao? Vậy qua phép báp-têm, chúng ta được chôn với Ngài trong sự chết của Ngài, để như Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Ðức Chúa Cha sống lại từ trong cõi chết thể nào, thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta đã hiệp nhất với Ngài trong sự chết của Ngài thể nào, chắc chắn chúng ta cũng sẽ hiệp nhất với Ngài trong sự sống lại của Ngài thể ấy. Chúng ta biết rằng con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài để bản ngã tội lỗi có thể bị tiêu diệt, và để từ đó trở đi chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết thì đã được giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi. Nếu chúng ta đã cùng chết với Ðấng Christ, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài. Chúng ta biết rằng Ðấng Christ, sau khi đã từ cõi chết sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa; sự chết không có quyền gì trên Ngài nữa. 10 Cái chết mà Ngài đã chết, Ngài chết đối với tội lỗi, chỉ một lần đủ cả; nhưng sự sống mà Ngài đang sống, Ngài sống cho Ðức Chúa Trời. 11 Vậy anh chị em cũng hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi và đang sống cho Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jesus Christ.

12 Thế thì xin anh chị em đừng để tội lỗi cầm quyền trong thân thể sẽ chết này của anh chị em, khiến anh chị em vâng theo dục vọng nó. 13 Ðừng để các chi thể anh chị em làm những khí cụ của sự bất chính để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy dâng chính mình cho Ðức Chúa Trời như những người đã từ cõi chết sống lại và dâng các chi thể mình làm những khí cụ của sự công chính để phục vụ Ðức Chúa Trời. 14 Vì tội lỗi sẽ không có quyền gì trên anh chị em, bởi anh chị em không còn ở dưới Luật Pháp, nhưng đang ở dưới ân sủng.

Nô Lệ của Sự Công Chính

15 Vậy thì sao? Chúng ta được phép phạm tội thoải mái, vì chúng ta không còn ở dưới Luật Pháp mà đang ở dưới ân sủng chăng?

Chẳng hề như vậy! 16 Anh chị em không biết rằng một khi anh chị em đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, anh chị em sẽ làm nô lệ của người mình vâng phục, hoặc của tội lỗi để phải chết, hoặc của sự vâng lời để được trở nên công chính chăng?

17 Tạ ơn Ðức Chúa Trời, vì trước kia anh chị em vốn là nô lệ của tội lỗi, mà nay lại hết lòng vâng theo khuôn mẫu tín lý đã truyền lại[a] cho mình, 18 và sau khi được giải thoát khỏi tội lỗi, anh chị em đã trở thành nô lệ cho sự công chính.

19 Tôi nói theo cách người đời thường nói, vì bản ngã xác thịt của anh chị em vẫn còn yếu đuối. Như trước kia anh chị em đã trao các chi thể mình để làm nô lệ cho sự ô uế và tội lỗi đến nỗi đã trở nên quá tội lỗi thể nào, nay hãy dâng các chi thể của anh chị em để làm nô lệ cho sự công chính hầu sẽ trở nên thánh cũng thể ấy.

20 Vì khi anh chị em còn là nô lệ của tội lỗi thì đối với sự công chính anh chị em thấy mình được tự do. 21 Thế hồi đó anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi và đã thu được kết quả gì mà bây giờ anh chị em lại hổ thẹn vậy? Thì ra kết quả của những việc ấy chỉ là sự chết. 22 Nhưng bây giờ anh chị em đã được giải thoát khỏi tội lỗi và được làm nô lệ cho Ðức Chúa Trời, anh chị em có được kết quả của mình là sự thánh hóa, và cuối cùng là sự sống đời đời. 23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang