M’Cheyne Bible Reading Plan
Gia-cốp và Ê-sau Tái Ngộ
33 Bấy giờ Gia-cốp ngước mắt lên và thấy Ê-sau đang tiến đến, cùng bốn trăm người đi theo ông. Gia-cốp liền chia các con ông ra cho Lê-a, Ra-chên, và hai nữ tỳ. 2 Ông để hai nữ tỳ với các con họ đi trước, kế đến là Lê-a và các con bà, rồi Ra-chên và Giô-sép đi cuối cùng. 3 Ðoạn chính ông tiến lên trước họ, sấp mình xuống đất bảy lần, cho đến khi ông đến gần anh ông.
4 Nhưng Ê-sau chạy đến gặp ông, ôm lấy ông, tựa đầu vào cổ ông, và hôn ông. Ðoạn hai anh em cùng khóc. 5 Khi Ê-sau ngước lên và thấy các phụ nữ cùng các trẻ con, ông hỏi, “Mấy người đi với em đây là ai vậy?”
Gia-cốp đáp, “Ðó là những đứa con Ðức Chúa Trời đã thương ban cho tôi tớ anh.”
6 Bấy giờ hai nữ tỳ và các con họ đến gần và sấp mình xuống chào. 7 Kế đến Lê-a và các con bà đến gần và sấp mình xuống chào. Cuối cùng Giô-sép và Ra-chên đến gần và sấp mình xuống chào. 8 Ê-sau hỏi, “Em định làm gì với tất cả các đàn súc vật mà anh đã gặp vậy?”
Gia-cốp đáp, “Ðể mong được anh là chúa của em đoái thương.”
9 Nhưng Ê-sau nói, “Anh đã có đầy đủ rồi, em à. Những gì của em, em hãy giữ lại đi.”
10 Gia-cốp đáp, “Thưa anh, không được đâu. Nếu em được ơn trước mặt anh, xin anh vui lòng nhận món quà đó từ tay em tặng, vì thưa anh, được thấy lại mặt anh thật chẳng khác gì em thấy được mặt Ðức Chúa Trời, vì anh đã thương mà chấp nhận em. 11 Xin anh nhận món quà em gởi đến anh, vì Ðức Chúa Trời đã đối xử tốt với em, và em đã có được mọi điều em cần.” Vì ông cứ nài ép mãi nên Ê-sau đã bằng lòng nhận.
12 Ðoạn Ê-sau nói, “Chúng ta hãy lên đường. Ðể anh đi trước dẫn đường.”
13 Nhưng Gia-cốp nói với ông, “Thưa chúa của em, chắc anh cũng biết các cháu còn yếu lắm. Các đàn chiên, dê, bò, lừa cũng vậy; chúng có các con nhỏ đi cùng. Em cần phải ở bên để săn sóc. Nếu ép buộc phải đi cho nhanh thì chỉ một ngày, tất cả các đàn chiên và dê sẽ chết hết. 14 Xin chúa của em cứ đi trước tôi tớ anh, cho em thủng thẳng đi sau, theo chân đàn súc vật phía trước em, và theo sức các cháu bé, cho đến khi em đến nơi anh ở tại Sê-i-rơ.”
15 Ê-sau nói, “Nếu vậy thôi để anh cho một số người đi với anh ở lại để hộ tống em.”
Nhưng ông đáp, “Tại sao em phải làm phiền chúa của em như thế?”
16 Vậy nội trong ngày đó Ê-sau lên đường trở về Sê-i-rơ. 17 Còn Gia-cốp thì đi ngược trở về Su-cốt và cất cho mình một căn nhà tại đó, rồi ông làm chuồng cho các đàn súc vật của ông. Vì thế người ta gọi nơi đó là Su-cốt.[a]
Gia-cốp Dọn đến Si-chem
18 Sau khi rời khỏi Pa-đan A-ram, Gia-cốp đến Thành Si-chem trong xứ Ca-na-an được an toàn. Ðến nơi, ông dựng lều trước cửa thành. 19 Số là ông đã mua một miếng đất của các con cháu Ha-mô cha của Si-chem với giá một trăm miếng bạc để có chỗ dựng lều. 20 Tại đó ông xây một bàn thờ và đặt tên là Ên Ê-lô-he I-sơ-ra-ên.[b]
Ngụ Ngôn về Người Gieo Giống
(Mat 13:1-9; Lu 8:4-8)
4 Ngài lại bắt đầu giảng dạy bên bờ biển. Một đám đông rất lớn tụ họp quanh Ngài đến nỗi Ngài phải lên ngồi trên một chiếc thuyền đậu ven bờ, còn đoàn dân đông đứng trên bờ. 2 Ngài dùng những ngụ ngôn dạy họ nhiều điều. Trong khi giảng dạy Ngài phán, 3 “Hãy nghe, này, một người kia đi ra gieo giống. 4 Trong khi gieo, một số hạt giống rơi bên vệ đường, chim đến ăn hết. 5 Một số khác rơi nhằm nơi sỏi đá, nơi chẳng có nhiều đất thịt. Chúng liền mọc lên, nhưng vì đất không nhiều, 6 nên khi mặt trời mọc lên, chúng bị nắng gắt thiêu đốt, và vì không có rễ ăn sâu, chúng bị héo khô. 7 Một số hạt khác rơi vào những bụi gai; gai góc mọc lên, làm chúng bị nghẹt, nên không kết quả. 8 Còn những hạt khác rơi vào đất tốt và kết quả. Chúng mọc lên, tăng trưởng, và nảy nở thêm nhiều; hạt thành ba mươi, hạt ra sáu chục, và hạt được một trăm.” 9 Ðoạn Ngài phán, “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.”
Lý Do Chúa Dùng Ngụ Ngôn
(Mat 13:10-15; Lu 8:9-10)
10 Khi Ngài ở một mình, những người quanh Ngài và mười hai sứ đồ đến hỏi Ngài về ý nghĩa của các ngụ ngôn. 11 Ngài nói với họ, “Ðối với các ngươi, huyền nhiệm về vương quốc Ðức Chúa Trời được giãi bày cho, nhưng đối với người ngoài thì mọi sự vẫn phải dùng ngụ ngôn, 12 để
‘Họ nhìn mà không thấy,
Họ nghe mà không hiểu,
Kẻo họ trở lại mà được tha thứ.’”
Chúa Giải Nghĩa Ngụ Ngôn Người Gieo Giống
(Mat 13:18-23; Lu 8:11-15)
13 Sau đó Ngài nói với họ, “Các ngươi không hiểu ý nghĩa của ngụ ngôn ấy sao? Vậy làm sao các ngươi có thể hiểu tất cả những ngụ ngôn khác? 14 Người gieo giống gieo đạo.[a] 15 Những hạt ở bên vệ đường chỉ về những người chịu nghe đạo đã gieo, nhưng khi họ vừa nghe xong, Sa-tan liền đến giựt lấy đạo đã gieo vào lòng họ. 16 Tương tự, những hạt gieo nhằm đất sỏi đá chỉ về những người khi nghe đạo thì vui mừng tin nhận, 17 nhưng chẳng để cho đạo đâm rễ trong lòng, mà chỉ tin hời hợt nhất thời; đến khi khó khăn hoạn nạn hoặc cơn bách hại vì đạo xảy ra, họ liền bỏ đạo. 18 Những hạt khác là những hạt rơi vào các bụi gai; đây chỉ về những người đã nghe đạo, 19 nhưng lại để cho những lo lắng về đời này, sự lừa dối của giàu sang, và những ham muốn các thứ khác làm cho nghẹt ngòi đạo và trở nên không kết quả. 20 Còn những hạt giống gieo vào đất tốt chỉ về những người nghe đạo, tiếp nhận, và kết quả; người được ba chục, người được sáu chục, và người được một trăm.”
Cái Ðèn và Ðong Lường
(Lu 8:16-18)
21 Ngài nói với họ, “Có ai đem đèn ra rồi để dưới thùng hoặc dưới gầm giường chăng? Chẳng phải người ấy để nó trên giá đèn sao? 22 Vì chẳng có gì giấu kín mà không có lúc bị phơi bày, chẳng có gì bí mật mà không có ngày bị đưa ra ánh sáng. 23 Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.”
24 Ngài nói với họ, “Hãy để ý những gì các ngươi nghe đây: Các ngươi đong cho người ta mức nào, các ngươi sẽ được đong lại mức ấy, mà còn được ban thêm. 25 Vì người nào có sẽ được cho thêm, còn người nào không có, thì ngay cả những gì người ấy đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
Ngụ Ngôn về Hạt Giống Mọc Lên
26 Ngài cũng phán, “Vương quốc Ðức Chúa Trời giống như một người kia gieo giống trên đất. 27 Ðêm ngày lặng lẽ trôi qua, bất kể người ấy ngủ hay thức hạt giống vẫn cứ nẩy mầm và mọc lên, người ấy chẳng biết nó phát triển thế nào. 28 Ðất cứ sinh sản hoa màu, thoạt đầu cây lúa mọc lên, rồi từ ngọn lúa sinh ra gié lúa, trong gié lúa các hạt gạo thành hình. 29 Khi lúa chín, người ấy liền đem liềm ra gặt, vì mùa gặt đã đến.”
Ngụ Ngôn về Hạt Cải
(Mat 13:31-32, 34; Lu 13:18-19)
30 Ngài lại phán, “Chúng ta sẽ ví sánh vương quốc Ðức Chúa Trời với gì? Hay sẽ giải thích vương quốc ấy bằng ngụ ngôn nào? 31 Giống như hạt cải kia, khi gieo xuống đất nó chỉ là một hạt nhỏ hơn tất cả các hạt giống khác trên đất. 32 Nhưng sau khi gieo, nó mọc lên và trở thành một cây cải lớn hơn các thứ rau khác, các cành nó to đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ dưới bóng nó.”
33 Ngài dùng nhiều ngụ ngôn như thế để giảng đạo cho họ tùy theo khả năng lãnh hội của họ. 34 Ngài không nói với họ điều chi mà không dùng ngụ ngôn. Tuy nhiên khi ở riêng với các môn đồ, Ngài giải thích cho họ mọi điều ấy.
Chúa Dẹp Yên Bão Tố
(Mat 8:23-27; Lu 8:22-25)
35 Ngày hôm ấy, khi chiều đến, Ngài nói với họ, “Chúng ta hãy qua bờ bên kia.” 36 Thế là họ rời đám đông và đưa Ngài lên thuyền, rồi cho thuyền ra khơi. Lúc ấy cũng có các thuyền khác đi theo. 37 Bấy giờ một trận bão lớn nổi lên, sóng đập vào thuyền dữ dội, nước tràn vào đến nỗi thuyền gần chìm, 38 trong khi đó Ngài ở đuôi thuyền, tựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Họ đến đánh thức Ngài dậy và nói, “Thưa Thầy, chúng ta sắp chết rồi mà Thầy không lo gì sao?”
39 Ngài thức dậy, quở gió, và phán với biển, “Hãy lặng xuống. Hãy im đi.” Gió liền dứt và biển lặng như tờ. 40 Ngài nói với họ, “Tại sao các ngươi sợ? Các ngươi vẫn chưa có đức tin sao?”
41 Họ quá đỗi kinh hoàng và nói với nhau, “Người này là ai mà gió và biển đều vâng lời?”
Những Kẻ Thù của Người Do-thái Bị Diệt
9 Bấy giờ ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa, đã đến, tức khi lệnh của vua và sắc chỉ của vua được đem ra thi hành. Trong ngày những kẻ thù của người Do-thái chờ đợi để cướp giết họ, sự việc lại diễn biến ngược lại: người Do-thái đã lấn lướt trên những kẻ thù của họ. 2 Ở các thành trong tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, người Do-thái tụ họp nhau lại và tra tay trên những kẻ toan giết hại họ. Không ai có thể chống cự nổi họ, bởi vì nỗi sợ hãi họ đã giáng xuống trên mọi dân tộc. 3 Tất cả các tỉnh trưởng của các tỉnh, các thống đốc, các tổng trấn, và các quan trong triều đều ủng hộ người Do-thái, bởi vì ai nấy đều nể sợ Mạc-đô-chê, 4 bởi vì Mạc-đô-chê đã trở thành người có quyền lực trong triều đình. Danh tiếng ông được vang lừng khắp các tỉnh, vì Mạc-đô-chê trở thành một người càng ngày càng có thêm quyền lực.
5 Vậy người Do-thái đã dùng gươm đánh hạ tất cả kẻ thù của họ. Họ giết chết và tiêu diệt chúng. Họ đã đối xử với những kẻ ghét họ theo ý họ muốn. 6 Trong Kinh Ðô Su-sa, người Do-thái đã giết chết và tiêu diệt năm trăm người. 7 Họ đã giết chết Pạc-san-đa-tha, Ðan-phôn, Át-pa-tha, 8 Pô-ra-tha, A-đa-lia, A-ri-đa-tha, 9 Pạc-mách-ta, A-ri-sai, A-ri-đai, và Va-giê-xa-tha, 10 tức mười con trai của Ha-man con trai Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, kẻ thù của người Do-thái; nhưng họ không đụng đến tài sản của chúng.
11 Ngày hôm ấy người ta báo cáo cho vua số người bị giết ở Kinh Ðô Su-sa. 12 Vua nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, “Trong Kinh Ðô Su-sa người Do-thái đã giết chết năm trăm người và mười con trai của Ha-man. Còn trong các tỉnh của trẫm thì chưa biết họ đã làm gì? Bây giờ khanh còn thỉnh nguyện gì nữa chăng? Trẫm sẽ ban cho khanh. Khanh muốn xin điều gì nữa không? Trẫm sẽ cho khanh được toại nguyện.”
13 Ê-xơ-tê tâu, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng cho phép người Do-thái được làm theo sắc chỉ hôm nay thêm ngày mai nữa tại Kinh Ðô Su-sa, và xin hoàng thượng cho phép họ được treo xác của mười con trai Ha-man trên các mộc hình.” 14 Vua bèn truyền lịnh cho thi hành y như vậy. Một sắc lệnh được ban ra và mười con trai của Ha-man bị treo xác. 15 Người Do-thái ở Su-sa cũng tập họp lại vào ngày mười bốn tháng A-đa và đánh giết thêm ba trăm người nữa tại Su-sa; nhưng họ không đụng đến tài sản của chúng.
16 Lúc ấy những người Do-thái khác ở trong các tỉnh của vua cũng họp nhau lại để bảo vệ mạng sống của họ và được giải cứu khỏi những kẻ thù của họ. Họ giết chết bảy mươi lăm ngàn kẻ ghét họ; nhưng họ không đụng tay đến tài sản của chúng. 17 Họ làm điều ấy vào ngày mười ba tháng A-đa, còn ngày mười bốn họ nghỉ và biến ngày ấy thành một ngày ăn mừng và hoan hỉ.
Lập Lễ Pu-rim
18 Tuy nhiên người Do-thái ở Su-sa đã tập họp nhau vào ngày mười ba và mười bốn, nên họ nghỉ ngày mười lăm và biến ngày ấy thành một ngày ăn mừng và hoan hỉ. 19 Vì thế những người Do-thái sống trong các làng mạc, tức trong những thành không tường bao quanh, đã chọn ngày mười bốn của tháng A-đa làm ngày hoan hỉ và ăn mừng, một ngày gởi các thực phẩm làm quà cho nhau.
20 Mạc-đô-chê ghi lại những điều ấy, rồi gởi thư đến tất cả người Do-thái sống trong các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, cả gần lẫn xa, 21 truyền cho họ phải chọn ngày mười bốn của tháng A-đa và ngày mười lăm của tháng ấy làm ngày lễ hằng năm, 22 tức biến những ngày ấy thành những ngày kỷ niệm người Do-thái được giải thoát khỏi các kẻ thù của họ, đồng thời cũng xem tháng đó là tháng đã biến đổi tình cảnh của họ từ sầu thảm thành vui mừng, từ than khóc thành ngày phước hạnh; và họ phải biến hai ngày ấy thành những ngày ăn mừng và hoan hỉ, những ngày để gởi các thực phẩm làm quà cho nhau và tặng quà cho người nghèo. 23 Vậy người Do-thái ghi nhận điều ấy và biến hai ngày đó thành một thông lệ thường niên, rồi họ khởi sự làm y như Mạc-đô-chê đã viết thư căn dặn họ. 24 Nguyên do là Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, kẻ thù của người Do-thái, đã lập mưu chống người Do-thái, định tiêu diệt họ. Ông ấy đã cho gieo Pu-rơ, tức gieo thăm, để tàn sát và tiêu diệt họ; 25 nhưng khi Ê-xơ-tê ra mắt vua, vua đã truyền chiếu chỉ rằng mưu đồ gian ác của ông ấy phải giáng xuống trên đầu ông ấy, và ông ấy cùng các con trai ông ấy đã bị treo trên mộc hình. 26 Vì thế những ngày ấy được gọi là Pu-rim, ra từ chữ Pu-rơ.
Thế thì vì mọi điều đã viết trong văn thư ấy, vì những gì họ đã chứng kiến, và vì những gì đã xảy đến cho họ, 27 người Do-thái đã thiết lập và chấp nhận một thông lệ thường niên cho họ, cho con cháu họ, và cho tất cả những ai gia nhập vào cộng đồng của họ rằng hằng năm họ không được bỏ qua nhưng phải giữ hai ngày lễ ấy, như đã viết trong văn thư, theo ngày giờ đã ấn định. 28 Những ngày ấy phải được ghi nhớ và phải giữ trải qua mọi thế hệ, trong mỗi gia đình, mỗi tỉnh, và mỗi thành. Người Do-thái không được quên những ngày lễ Pu-rim này, và con cháu họ cũng không được ngưng kỷ niệm những ngày lễ ấy.
29 Hoàng Hậu Ê-xơ-tê con gái của A-bi-ha-in cùng với Mạc-đô-chê người Do-thái đã lấy thẩm quyền của họ xác nhận bức thư thứ hai ấy về Lễ Pu-rim. 30 Bản sao bức thư ấy đã được gởi đến tất cả người Do-thái trong một trăm hai mươi bảy tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, cầu chúc họ được hòa bình thịnh vượng và an ninh, 31 và ra lệnh rằng những ngày Lễ Pu-rim này phải được giữ theo ngày giờ đã ấn định, y như Mạc-đô-chê người Do-thái và Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đã truyền cho người Do-thái, theo tập quán mà họ đã lập cho họ và cho con cháu họ về việc kiêng ăn và than khóc.
32 Lệnh của Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đã biến việc giữ Lễ Pu-rim này thành một lễ cố định, và điều ấy đã được ghi vào sách.
Lời Kết
10 Vua A-ha-suê-ru bắt dân trong các xứ và các hải đảo xa xăm phải nộp thuế. 2 Tất cả các công việc để biểu dương uy quyền và thế lực của vua, cùng mọi điều vua đã làm để khiến cho Mạc-đô-chê được tôn trọng, tức những lần vua thăng chức cho ông, há không phải chúng đã được chép trong các sách Sử Ký của Các Vua Mê-đi và Ba-tư sao? 3 Thật vậy Mạc-đô-chê người Do-thái được ban cho quyền hành đứng hàng thứ nhì sau Vua A-ha-suê-ru. Ông là người có quyền giữa vòng người Do-thái và luôn được đông đảo đồng bào ông thương mến, bởi vì ông luôn làm những gì có lợi cho dân tộc ông, và lên tiếng binh vực cho quyền lợi của đồng bào ông.
Gương của Áp-ra-ham
4 Vậy chúng ta sẽ nói gì về tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta theo phần xác đã được? 2 Vì nếu nhờ vào việc làm mà Áp-ra-ham đã được xưng công chính thì ông có lý do để tự hào; nhưng ông không thể tự hào trước mặt Ðức Chúa Trời được, 3 vì Kinh Thánh đã nói gì?
“Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và vì thế ông được kể là công chính.”
4 Thế thì, đối với người làm việc, tiền công không phải là ơn huệ, nhưng là món nợ chủ phải trả. 5 Nhưng đối với người không cậy vào việc làm, mà chỉ tin vào Ðấng làm cho người có tội được xưng công chính, thì đức tin của người ấy được kể là yếu tố giúp người ấy được xưng công chính. 6 Ðó cũng là điều Ða-vít đã nói về phước hạnh của người được Ðức Chúa Trời kể là công chính mà không nhờ cậy vào việc làm,
7 “Phước cho người được tha những vi phạm mình, được khỏa lấp những tội lỗi mình.
8 Phước cho người được Chúa không kể tội của mình.”
Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Phép Cắt Bì
9 Phải chăng phước hạnh ấy chỉ dành cho những người được cắt bì, hay cũng cho những người không được cắt bì nữa? Vì nếu chúng ta nói rằng,
“Nhờ đức tin mà Áp-ra-ham được kể là công chính,”
10 thì nếu vậy, ông ta được kể là công chính như thế nào? Lúc ông đã được cắt bì rồi, hay lúc ông chưa được cắt bì?
Không phải sau khi ông đã được cắt bì đâu, nhưng là trước khi ông được cắt bì. 11 Ông đã nhận dấu cắt bì như một dấu ấn của việc được xưng công chính nhờ đức tin trong khi ông còn là một người chưa được cắt bì, để ông có thể làm tổ phụ của tất cả những người có đức tin dù không được cắt bì, hầu họ cũng được kể là công chính. 12 Cũng vậy, ông là tổ phụ của những người được cắt bì, tức những người không những chỉ được cắt bì nhưng cũng bước theo những bước đức tin mà ông, tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta, đã trải qua trong lúc ông chưa được cắt bì.
Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Vâng Giữ Luật Pháp
13 Vì không phải nhờ vâng giữ Luật Pháp mà Áp-ra-ham hay dòng dõi ông được lời hứa sẽ nhận thế gian làm cơ nghiệp, nhưng là nhờ được xưng công chính bởi đức tin. 14 Vì nếu nhờ vâng giữ Luật Pháp mà được thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin đã trở thành vô ích, và lời hứa đã bị vô hiệu hóa. 15 Vì Luật Pháp sẽ đem cơn thịnh nộ đến với người phạm pháp; và chỉ nơi nào không có Luật Pháp, nơi đó mới không có sự phạm pháp.
16 Thế thì nhờ đức tin tiếp nhận ân sủng mà lời hứa được bảo đảm cho cả dòng dõi của Áp-ra-ham, không những chỉ cho dòng dõi ở dưới Luật Pháp, nhưng cũng cho dòng dõi đức tin của ông nữa. Ông chính là tổ phụ của tất cả chúng ta, (17 như có chép rằng,
“Ta đã lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc”
trước mặt Ðức Chúa Trời, Ðấng ông tin có quyền làm cho kẻ chết sống lại và ra lịnh[a] cho những gì chưa hiện hữu trở thành hiện hữu.
Ðức Tin của Áp-ra-ham và Ðức Tin của Chúng Ta
18 Mặc dù Áp-ra-ham[b] không còn gì để hy vọng, ông vẫn hy vọng và vẫn tin rằng ông sẽ trở thành
“Cha của nhiều dân tộc,”
theo như lời đã phán với ông rằng,
“Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế.”
19 Ðức tin của ông không hề suy giảm, mặc dù thân thể ông coi như đã chết, vì lúc ấy ông đã gần một trăm tuổi, và dạ bà Sa-ra không còn thể sinh con.[c] 20 Nhưng đối với lời hứa của Ðức Chúa Trời, ông không hề nao núng đức tin mà nghi ngờ gì cả,[d] nhưng càng tin tưởng mãnh liệt hơn, và như thế đã đem vinh hiển về cho Ðức Chúa Trời. 21 Ông tin quả quyết rằng Ðức Chúa Trời có khả năng làm thành những gì Ngài đã hứa. 22 Vì thế ông đã được kể là người công chính.
23 Nhưng khi viết rằng, “ông đã được kể là người công chính,” thì điều ấy không những chỉ nói về một mình ông, 24 nhưng cũng nói về chúng ta nữa. Chúng ta cũng sẽ được kể là những người công chính khi chúng ta tin Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại. 25 Ngài đã bị nộp để chết vì tội chúng ta và đã được làm cho sống lại, để chúng ta được xưng công chính.
Copyright © 2011 by Bau Dang