Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 31

Gia Ðình Gia-cốp Bỏ Trốn

31 Bấy giờ Gia-cốp nghe các con trai La-ban nói với nhau, “Gia-cốp đã lấy tất cả những gì thuộc về cha chúng ta. Anh ấy được giàu có như thế là nhờ tài sản của cha chúng ta.” Ngoài ra Gia-cốp cũng thấy La-ban đối xử với ông không như trước nữa. Bấy giờ Chúa phán với Gia-cốp, “Hãy trở về xứ sở của tổ tiên ngươi, và về với bà con ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi.”

Vậy Gia-cốp cho người gọi Ra-chên và Lê-a đến cánh đồng có đàn súc vật của ông đang ở. Ông nói với họ, “Anh thấy nét mặt của cha hai em không còn tử tế với anh như trước nữa, nhưng Ðức Chúa Trời của cha anh luôn ở với anh. Các em biết anh đã làm việc cho cha các em tận tụy như thế nào. Dù vậy, cha các em đã gạt anh và đã thay đổi công giá của anh mười lần, nhưng Ðức Chúa Trời không cho phép ông làm hại anh. Hễ ông nói, ‘Những con vật lông lấm chấm sẽ là công giá của con,’ thì cả đàn súc vật đều đẻ con có lông lấm chấm. Còn hễ ông nói, ‘Những con có vằn sẽ là công giá của con,’ thì cả đàn súc vật đều đẻ con lông có vằn. Như vậy Ðức Chúa Trời đã lấy đàn súc vật của cha các em mà ban cho anh. 10 Khi đến mùa các con vật giao cấu với nhau, anh ngước mắt lên và thấy trong giấc mơ, và nầy, những con chiên đực phủ trên cả bầy đều đẻ ra những con có vằn, lấm chấm, hoặc có sọc. 11 Thiên Sứ của Ðức Chúa Trời nói với anh trong chiêm bao rằng, ‘Hỡi Gia-cốp;’ anh đáp, ‘Thưa có con đây.’ 12 Ngài phán với anh, ‘Hãy ngước lên và nhìn xem, tất cả dê đực phủ trên bầy sẽ đẻ ra những con có vằn, lấm chấm, hoặc có sọc, vì Ta đã thấy tất cả những gì La-ban đã làm cho ngươi. 13 Ta là Ðức Chúa Trời ở Bê-tên, nơi ngươi đã xức dầu trên một hòn đá và thề nguyện với Ta. Bây giờ hãy lập tức rời khỏi xứ nầy và lên đường trở về xứ ngươi đã chôn nhau cắt rốn.’”

14 Bấy giờ Ra-chên và Lê-a nói với ông, “Chúng em còn có phần gia tài gì trong nhà cha chúng em nữa chăng? 15 Cha há đã không coi chúng em như những người dưng rồi sao? Vì cha đã gả bán chúng em và tiêu sạch số tiền cha đã gả bán chúng em rồi. 16 Tất cả tài sản Ðức Chúa Trời đã lấy từ cha chúng em sẽ thuộc về chúng ta và con cái chúng ta. Vậy bây giờ anh cứ làm điều gì Ðức Chúa Trời đã phán với anh.”

17 Bấy giờ Gia-cốp đứng dậy, đỡ các con và các vợ ông lên lưng các lạc đà. 18 Ông dẫn tất cả những đàn súc vật của ông, tức tất cả tài sản ông có được, đó là những đàn súc vật riêng của ông mà ông đã gây dựng được tại Pa-đan A-ram, để trở về với I-sác cha ông đang sống trong xứ Ca-na-an.

19 Trong lúc La-ban đi hớt lông chiên, Ra-chên đến ăn cắp những tượng gia thần cha bà thờ trong nhà. 20 Gia-cốp đánh lừa La-ban người A-ram bằng cách không nói cho ông ấy biết ông định trốn đi. 21 Thế là ông trốn đi với tất cả những gì ông có. Ông đứng dậy, vượt qua Sông Ơ-phơ-rát,[a] rồi thẳng tiến về miền Cao Nguyên Ghi-lê-át.

La-ban Ðuổi Theo Gia-cốp

22 Ðến ngày thứ ba, người ta báo cho La-ban hay rằng Gia-cốp đã trốn đi rồi. 23 Ông liền triệu tập những người trong dòng họ và đuổi theo Gia-cốp. Sau khi truy đuổi được bảy ngày, ông bắt kịp họ ở miền Cao Nguyên Ghi-lê-át. 24 Nhưng ban đêm trong chiêm bao Ðức Chúa Trời đến báo với ông, “Hãy coi chừng, đừng nói điều gì với Gia-cốp, dù lành hay dữ.”

25 La-ban đuổi theo kịp Gia-cốp. Bấy giờ Gia-cốp đã dựng lều trên núi, và La-ban cùng những người theo ông cũng dựng lều trên Núi Ghi-lê-át.

26 La-ban nói với Gia-cốp, “Con đã làm gì thế? Tại sao con đã gạt cha, và bắt các con gái của cha dẫn đi như thể người ta dùng gươm bắt dẫn các tù binh vậy? 27 Tại sao con lén trốn đi và gạt cha mà không nói cho cha biết? Nếu biết thì cha đã tiễn con ra đi cách vui vẻ với tiếng hát, tiếng trống, và tiếng đàn rồi. 28 Sao con không để cha hôn tiễn các con gái và các cháu ngoại của cha? Con đã hành động thật dại dột! 29 Cha có thừa khả năng làm hại con, nhưng đêm qua, Ðức Chúa Trời của cha con đã nói với cha, ‘Hãy thận trọng, đừng nói điều gì với Gia-cốp, dù lành hay dữ.’ 30 Và cho dù con có phải ra đi, vì con đã nhớ nhà cha con quá đỗi đi nữa, thì tại sao con lại ăn cắp các tượng thần của cha?”

31 Gia-cốp trả lời La-ban, “Thưa, bởi vì con sợ. Con sợ cha sẽ dùng vũ lực đoạt lại các con gái của cha. 32 Nhưng người nào cha tìm thấy có các tượng thần của cha, người ấy sẽ không sống nữa. Trước sự chứng kiến của bà con dòng họ chúng ta đây, xin cha chỉ ra những gì con có mà là của cha, thì xin cha cứ lấy.” Khi ấy Gia-cốp không biết Ra-chên đã ăn cắp các tượng thần của cha bà.

33 Vậy La-ban vào lều của Gia-cốp, rồi vào lều của Lê-a, và vào lều của hai nữ tỳ, nhưng ông không tìm thấy các tượng thần đó. Ông ra khỏi lều của Lê-a và vào lều của Ra-chên. 34 Bấy giờ Ra-chên đã lấy các tượng gia thần đó giấu trong yên lạc đà, rồi ngồi lên trên. La-ban lục lọi khắp nơi trong lều, nhưng không tìm thấy chúng. 35 Bà nói với cha bà, “Xin chúa của con đừng giận, con xin lỗi vì con không thể đứng dậy để chào cha được. Con đang bị kẹt, vì trong người con đang tới thời kỳ hằng tháng của đàn bà.” Vậy ông lục soát khắp nơi, nhưng không tìm được các tượng gia thần của ông.

36 Bấy giờ Gia-cốp nổi giận và trách La-ban. Gia-cốp nói với La-ban, “Con đã làm gì có lỗi với cha? Con đã có tội tình gì mà cha truy đuổi con gắt gao như vậy? 37 Bây giờ cha đã lục soát tất cả đồ đạc của con rồi, cha đã tìm thấy được món gì thuộc về nhà cha không? Xin cha lấy ra đây để các thân nhân của cha và các thân nhân của con quyết định cho hai chúng ta. 38 Trong hai mươi năm qua, con đã ở với cha, những chiên cái và dê cái của cha không hề sẩy thai, con không ăn thịt một con chiên đực nào trong các bầy của cha. 39 Con nào bị thú rừng cắn xé, con cũng không mang xác nó đến cho cha hay, nhưng con tự nhận lấy trách nhiệm và bồi thường. Con nào bị mất trộm dù ban ngày hay ban đêm, cha đều bắt con phải bồi thường. 40 Bao nhiêu năm nay con đã sống như thế nầy: ban ngày chịu nắng hừng thiêu đốt, ban đêm chịu giá lạnh buốt người; mắt con không được một giấc ngủ ngon. 41 Hai mươi năm qua con đã sống trong nhà cha. Con làm việc cho cha mười bốn năm để được hai con gái của cha, và thêm sáu năm để chăn đàn súc vật của cha, và cha đã thay đổi công giá của con mười lần. 42 Nếu Ðức Chúa Trời của cha con, Ðấng I-sác hằng kính sợ, tức là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, không ở với con, thì bây giờ chắc hẳn cha đã đuổi con ra tay không rồi. Ðức Chúa Trời đã thấy rõ nỗi khổ của con và công lao khó nhọc của đôi tay con, nên đã khiển trách cha đêm qua đó.”

Gia-cốp và La-ban Kết Ước

43 Bấy giờ La-ban trả lời và nói, “Các cô gái nầy là con gái của cha, các cháu nầy là cháu ngoại của cha, các đàn súc vật nầy là các đàn súc vật của cha. Tất cả những gì con thấy đều là của cha. Nhưng hôm nay cha có thể nói gì được về các con gái nầy của cha hay về những đứa con do chúng sinh ra chăng? 44 Thôi bây giờ hãy lại đây, chúng ta hãy lập một giao ước với nhau. Giao ước đó sẽ làm chứng giữa cha và con.” 45 Vậy Gia-cốp lấy một hòn đá dựng lên làm trụ. 46 Gia-cốp nói với các thân nhân của ông, “Hãy mang đá lại đây.” Họ bèn khuân đá tới chất thành một đống, rồi dùng bữa với nhau bên[b] đống đá ấy. 47 La-ban gọi đống đá ấy là Giê-ga Sa-ha-đu-tha,[c] nhưng Gia-cốp gọi nó là Ga-lê-ết.[d] 48 La-ban nói, “Hôm nay đống đá nầy làm chứng giữa cha và con.” Vì thế nó được gọi là Ga-lê-ết. 49 Người ta cũng gọi nó là Mích-pa,[e] vì ông nói, “Cầu xin Chúa trông chừng con và cha, khi cha con ta xa cách nhau. 50 Nếu con đối xử tệ với các con gái cha, hoặc nếu con cưới thêm vợ khác ngoài các con gái cha, dù không ai có mặt lúc đó, con hãy coi chừng, vì Ðức Chúa Trời làm chứng giữa con và cha.”

51 La-ban nói với Gia-cốp, “Ðây là đống đá và đây là trụ đá cha đã đặt giữa con và cha. 52 Ðống đá nầy làm bằng chứng và trụ đá nầy làm bằng chứng rằng cha sẽ không vượt qua đống đá nầy xông qua bên con, và con cũng không được vượt qua đống đá nầy và trụ đá nầy xông qua bên cha, với ý định làm hại nhau. 53 Cầu xin Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Ðức Chúa Trời của Na-hô” –tức Ðức Chúa Trời của tổ phụ họ– “phán xét giữa chúng ta.” Vậy Gia-cốp nhân danh Ðấng mà I-sác cha ông hằng kính sợ để thề. 54 Ðoạn Gia-cốp dâng một con vật hiến tế trên nơi cao và mời mọi người trong bà con dòng họ đến dùng bữa. Dùng bữa xong, họ nghỉ lại đêm đó trên núi.

55 Sáng hôm sau La-ban dậy sớm, hôn các cháu ngoại của ông và các con gái ông. Ông chúc phước cho họ, rồi lên đường trở về nhà ông.[f]

Mác 2

Chúa Chữa Lành Người Bại

(Mat 9:1-8; Lu 5:17-26)

Mấy ngày sau Ngài vào lại Thành Ca-bê-na-um. Người ta nói cho nhau biết Ngài đang ở trong nhà. Thế là nhiều người kéo nhau đến đầy nghẹt nhà, tràn ra cửa, và Ngài giảng Ðạo cho họ. Bấy giờ người ta đem đến Ngài một người bại, do bốn người khiêng. Khi bốn người ấy thấy không thể nào đem người bại đến gần Ngài, vì đám đông không nhường lối, họ gỡ bửng trên mái nhà ngay chỗ Ngài ngồi, để lộ ra một khoảng trống, rồi dòng người bại đang nằm trên cáng xuống. Khi Ðức Chúa Jesus thấy đức tin của họ, Ngài nói với người bại, “Hỡi con, tội lỗi của con đã được tha.”

Lúc ấy có mấy thầy dạy giáo luật đang ngồi ở đó, họ nghĩ thầm trong lòng, “Tại sao người này dám lộng ngôn như thế? Ngoài một mình Ðức Chúa Trời, ai có quyền tha tội?”

Ngay lập tức, trong tâm linh Ngài, Ðức Chúa Jesus biết họ đang nghĩ gì, Ngài nói với họ, “Tại sao trong lòng các ngươi thắc mắc về những điều ấy? Nói với người bại điều nào dễ hơn? Nói, ‘Tội lỗi ngươi đã được tha,’ hay nói, ‘Hãy đứng dậy, vác cáng của ngươi, và đi’? 10 Nhưng để các ngươi biết, Con Người có quyền tha tội ở thế gian” –Ngài phán với người bại– 11 “Ta bảo ngươi, hãy đứng dậy, vác cáng của ngươi, và đi về nhà.”

12 Người ấy lập tức đứng dậy, vác cáng đi ra trước mắt mọi người, đến nỗi mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Ðức Chúa Trời rằng, “Chúng ta chưa hề thấy một việc như thế xảy ra bao giờ.”

Chúa Kêu Gọi Lê-vi

(Mat 9:9; Lu 5:27-28)

13 Ngài đi ra bờ biển trở lại; cả một đám đông kéo đến với Ngài, và Ngài dạy dỗ họ. 14 Trên đường đi Ngài thấy Lê-vi con của Anh-phê đang ngồi ở trạm thu thuế, Ngài nói với ông, “Hãy theo Ta.” Ông đứng dậy và đi theo Ngài.

Chúa Dùng Bữa với Những Người Tội Lỗi

(Mat 9:10-13; Lu 5:29-32)

15 Sau việc đó Ngài ngồi ăn tối tại nhà của Lê-vi. Có nhiều người thu thuế và những kẻ tội lỗi ngồi ăn với Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài, vì có nhiều người đã theo Ngài. 16 Khi các thầy dạy giáo luật của phái Pha-ri-si thấy Ngài ngồi ăn với những kẻ tội lỗi và những người thu thuế, họ nói với các môn đồ Ngài, “Tại sao Thầy các anh ăn uống với phường thu thuế và những kẻ tội lỗi như thế?”

17 Nghe vậy Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Không phải những người mạnh khỏe cần y sĩ, nhưng là những người bịnh. Ta đến không phải để gọi những người công chính, nhưng là những kẻ tội lỗi.”

Chúa Dạy về Sự Kiêng Ăn

(Mat 9:14-17; Lu 5:33-39)

18 Khi ấy các môn đồ của Giăng và của người Pha-ri-si đang kiêng ăn. Có người đến hỏi Ngài, “Tại sao các môn đồ của Giăng và các môn đồ của phái Pha-ri-si kiêng ăn, còn các môn đồ của Thầy không kiêng ăn?”

19 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Các bạn của chàng rể có thể kiêng ăn khi chàng rể còn ở với họ chăng? Khi chàng rể còn ở với họ, họ không thể kiêng ăn. 20 Nhưng đến ngày chàng rể phải lìa họ, ngày ấy họ sẽ kiêng ăn. 21 Không ai vá miếng vải mới vào chiếc áo cũ, vì làm như thế, miếng vải mới sẽ rút lại, vải mới sẽ kéo chằng vải cũ, và tạo ra một chỗ rách mới tệ hơn. 22 Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì làm như thế, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rồi cả rượu lẫn bầu rượu sẽ bị mất; nhưng người ta đổ rượu mới vào bầu da mới.”

Mục Ðích của Ngày Sa-bát

(Mat 12:1-8; Lu 6:1-5)

23 Một ngày Sa-bát nọ Ðức Chúa Jesus đi ngang qua một cánh đồng. Dọc đường các môn đồ Ngài bắt đầu ngắt các gié lúa. 24 Những người Pha-ri-si nói với Ngài, “Xem kìa, sao các môn đồ Thầy làm điều trái luật trong ngày Sa-bát như thế?”

25 Ngài nói với họ, “Các ngươi chưa đọc những gì Ða-vít đã làm khi ông và những người theo ông bị đói và cần thức ăn sao? 26 Thể nào ông đã vào nhà của Ðức Chúa Trời, khi A-bi-a-tha làm thượng tế; ông đã ăn bánh thánh, là thứ bánh không ai được phép ăn ngoại trừ các tư tế, và ông đã cho những người đi theo ông ăn nữa.” 27 Ðoạn Ngài nói với họ, “Ngày Sa-bát được lập ra cho loài người, chứ không phải loài người được dựng nên cho ngày Sa-bát. 28 Vì vậy Con Người cũng là Chúa của ngày Sa-bát.”

Ê-xơ-tê 7

Ha-man Bị Suy Bại

Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc do Hoàng Hậu Ê-xơ-tê thết đãi. Vào ngày thứ hai, đang khi họ uống rượu, vua hỏi Ê-xơ-tê lần nữa, “Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, khanh có thỉnh nguyện gì? Trẫm sẽ ban cho. Khanh muốn xin điều gì? Dù đến phân nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho.”

Bấy giờ Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đáp, “Tâu hoàng thượng, nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng giữ mạng sống của thần thiếp lại, đó là thỉnh nguyện của thần thiếp, và xin giữ mạng sống của dân tộc thần thiếp lại, đó là điều cầu xin của thần thiếp, vì thần thiếp và dân tộc của thần thiếp đã bị bán để bị tiêu diệt, tàn sát, và tận diệt. Nếu thần thiếp và dân tộc của thần thiếp phải bị bán để làm nam nữ nô lệ, thì thần thiếp chẳng dám nói gì, vì nỗi khổ như thế chẳng đáng để làm bận tâm đến hoàng thượng.”[a]

Bấy giờ Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, “Kẻ đó là ai? Nó ở đâu? Kẻ nào dám cả gan làm như thế?”

Ê-xơ-tê đáp, “Kẻ thù và kẻ nghịch đó chính là ông Ha-man gian ác này.” Bấy giờ Ha-man khiếp sợ trước mặt vua và hoàng hậu. Vua bừng bừng nổi giận, đứng lên, bỏ tiệc rượu, và bước ra vườn ngự uyển, nhưng Ha-man vẫn ở lại để van xin Hoàng Hậu Ê-xơ-tê cứu mạng, vì ông nhận thấy vua đã quyết định tiêu diệt ông.

Khi vua từ vườn ngự uyển trở vào phòng tiệc, vua thấy Ha-man đang ngã mình trên trường kỷ nơi Ê-xơ-tê đang ngồi, vua nói, “Trong cung thất, ngay trước mặt ta, mà nó còn tính hãm hiếp hoàng hậu sao?” Lời vừa ra khỏi miệng vua, người ta liền trùm mặt Ha-man lại.

Bấy giờ Hạc-bô-na, một trong các thái giám đang hầu bên vua, nói, “Kìa, có cây mộc hình cao hai mươi lăm thước[b] mà Ha-man đã dựng để treo cổ Mạc-đô-chê, người đã báo tin để cứu mạng vua, đang đứng sừng sững trong sân nhà Ha-man.”

Vua phán, “Hãy treo cổ nó lên đó.”

10 Vậy người ta treo cổ Ha-man trên mộc hình ông đã dựng để treo cổ Mạc-đô-chê. Sau đó cơn giận của vua nguôi ngoai.

Rô-ma 2

Sự Phán Xét của Ðức Chúa Trời

Vậy hỡi người kia, dù bạn là ai, khi bạn xét đoán người khác, bạn sẽ không thể bào chữa cho mình; vì khi xét đoán người khác mà bạn cũng làm những việc như người đó làm tức là bạn đã tự kết án mình. Chúng ta biết rằng sự phán xét của Ðức Chúa Trời đối với những ai làm những việc tội lỗi như thế là hợp với chân lý.

Hỡi người kia, khi bạn lên án người khác mà chính bạn cũng làm những việc ấy và hành động như thế, bạn tưởng bạn có thể thoát khỏi sự phán xét của Ðức Chúa Trời sao? Hay bạn coi thường sự phong phú của đức nhân từ, sức chịu đựng, và lòng khoan dung của Ðức Chúa Trời? Bạn không biết rằng lòng nhân từ của Ðức Chúa Trời là cốt để bạn có cơ hội ăn năn sao? Nhưng ấy là vì lòng cứng cỏi và không chịu ăn năn của bạn mà bạn đã tự chất chứa cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ và biểu lộ sự phán xét công bình của Ðức Chúa Trời, Ðấng sẽ báo trả mỗi người tùy theo việc họ làm. Ai bền chí làm lành để tìm vinh hiển, tôn trọng, và sự bất tử, sẽ được Ngài ban cho sự sống đời đời. Còn kẻ ích kỷ, không vâng theo chân lý, nhưng cứ đi theo sự gian ác sẽ chuốc lấy cơn giận và cơn thịnh nộ của Ngài. Hoạn nạn và khốn khổ sẽ giáng trên mọi kẻ làm ác, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, 10 nhưng vinh hiển, tôn trọng, và bình an sẽ ban cho mọi người làm lành, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 11 Vì Ðức Chúa Trời không thiên vị ai cả.

Mọi Người Sẽ Bị Chúa Phán Xét

12 Ai không biết Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị chết mất, không cần chiếu theo Luật Pháp; còn ai có Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị xét xử theo Luật Pháp. 13 Vì đối với Ðức Chúa Trời, không phải người nghe biết Luật Pháp là công chính, nhưng người làm theo Luật Pháp mới được xưng là công chính.

14 Vì khi các dân ngoại, những người không có Luật Pháp, theo bản năng tự nhiên đã làm những điều Luật Pháp dạy bảo thì chính những người đó, dù không có Luật Pháp, là luật pháp cho họ rồi. 15 Họ đã chứng tỏ rằng những gì Luật Pháp đòi hỏi đã được khắc ghi trong lòng họ, và lương tâm họ cũng làm chứng cho điều đó, vì những tư tưởng của họ cứ xung đột với nhau, khi thì cáo trách, khi thì binh vực. 16 Ðiều ấy sẽ thể hiện rõ trong ngày Ðức Chúa Trời, qua Ðức Chúa Jesus Christ, phán xét mọi tư tưởng thầm kín của mọi người, theo Tin Mừng tôi rao giảng.

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Có Luật Pháp của Môi-se

17 Còn bạn, nếu bạn mang danh là người Do-thái, ỷ lại vào Luật Pháp, tự hào về mối liên hệ với Ðức Chúa Trời, 18 cho rằng mình hiểu biết ý muốn Ngài, biết phân biệt đúng sai nhờ đã được dạy dỗ từ Luật Pháp, 19 và cho mình là người dẫn đường cho người mù, ánh sáng cho người đi trong tối tăm, 20 giáo sư của người khờ dại, thầy cô của người ấu trĩ, và có Luật Pháp là hiện thân của tri thức và chân lý, 21 vậy tại sao bạn dạy người khác mà không dạy mình? Bạn giảng chớ trộm cắp, mà bạn có trộm cắp không? 22 Bạn cấm người ta ngoại tình, mà bạn có ngoại tình không? Bạn gớm ghiếc sự thờ lạy thần tượng, mà bạn có cướp đồ trong các đền miếu không? 23 Bạn tự hào về Luật Pháp, mà bạn có làm nhục Ðức Chúa Trời vì đã vi phạm Luật Pháp không? 24 Như có chép,

“Vì cớ các ngươi, danh Ðức Chúa Trời đã bị nói phạm giữa các dân ngoại.”Ê-sai 52:5 LXX

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Ðược Cắt Bì

25 Thật vậy phép cắt bì rất có giá trị nếu bạn giữ trọn Luật Pháp; nhưng nếu bạn là người vi phạm Luật Pháp thì dù đã được cắt bì, bạn cũng trở nên như người không được cắt bì thôi. 26 Như vậy nếu một người không được cắt bì nhưng vâng giữ những đòi hỏi của Luật Pháp thì tuy không được cắt bì nhưng người ấy chẳng thể được xem như đã được cắt bì rồi sao?

27 Vậy những người không được cắt bì trên thân xác nhưng luôn vâng giữ Luật Pháp sẽ xét đoán bạn là người có văn bản của Luật Pháp và được cắt bì, vì bạn đã vi phạm Luật Pháp. 28 Vì một người chỉ có bề ngoài là người Do-thái thì không phải là người Do-thái thật; cũng thế, sự cắt bì chỉ ở bên ngoài và trên thân xác, sự cắt bì đó không phải là sự cắt bì thật. 29 Nhưng một người bên trong là người Do-thái mới thật sự là người Do-thái. Sự cắt bì thật là sự cắt bì trong lòng, bằng Ðức Thánh Linh,[a] chứ không bằng văn tự. Một người như thế sẽ được khen ngợi không phải từ loài người, nhưng từ Ðức Chúa Trời.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang