M’Cheyne Bible Reading Plan
Con Cái của Bin-ha và Xinh-pa
30 Khi Ra-chên thấy bà không sinh được đứa con nào cho Gia-cốp, bà ganh tị với chị mình và nói với Gia-cốp, “Anh phải cho em có con, còn không em chết!”
2 Gia-cốp nổi giận với Ra-chên và nói, “Bộ anh là Ðức Chúa Trời, Ðấng có quyền không cho em có con, sao?”
3 Bà nói, “Ðây là Bin-ha, nữ tỳ của em. Anh hãy ăn nằm với nó, để nó có con, rồi em sẽ nhận con nó làm con em, để nhờ nó em cũng có con như ai.”[a] 4 Rồi bà đưa Bin-ha nữ tỳ của bà để làm vợ ông. Gia-cốp đến với nàng. 5 Bin-ha có thai và sinh cho Gia-cốp một con trai. 6 Bấy giờ Ra-chên nói, “Ðức Chúa Trời đã xét xử cho tôi. Ngài đã nghe tiếng kêu cầu của tôi và cho tôi một con trai.” Bà đặt tên nó là Ðan.[b] 7 Bin-ha nữ tỳ của Ra-chên lại có thai nữa và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ hai. 8 Bấy giờ Ra-chên nói, “Tôi đã vật lộn[c] với chị tôi những trận thật dữ dội, và tôi đã chiến thắng.” Bà đặt tên nó là Náp-ta-li.
9 Khi Lê-a thấy bà đã ngưng sinh sản, bà lấy Xinh-pa nữ tỳ của bà và trao cho Gia-cốp, để nàng làm vợ ông. 10 Xinh-pa nữ tỳ của Lê-a sinh cho Gia-cốp một con trai. 11 Bấy giờ Lê-a nói, “Thật là may mắn thay!” Vì thế bà đặt tên nó là Gát.[d] 12 Xinh-pa nữ tỳ của Lê-a lại sinh cho Gia-cốp một con trai thứ hai. 13 Lê-a bèn nói, “Tôi thật là có phước! Vì các phụ nữ sẽ gọi tôi là người có phước.” Do đó bà đặt tên nó là A-se.[e]
14 Vào mùa gặt lúa mì, Ru-bên ra đồng và tìm được một ít trái táo tình.[f] Cậu đem về cho Lê-a mẹ cậu. Ra-chên nói với Lê-a, “Chị cho em ít trái táo tình của con chị đi.”
15 Lê-a đáp với bà, “Bộ em tưởng giựt chồng của chị là chuyện nhỏ sao, mà bây giờ còn muốn lấy mấy trái táo tình của con chị nữa?”
Ra-chên đáp, “Chị cho em mấy trái táo tình của cháu thì tối nay em sẽ nhường ảnh cho chị.”
16 Ðến chiều tối khi Gia-cốp ở ngoài đồng về, Lê-a ra đón gặp ông và nói, “Tối nay anh phải qua ngủ bên em, vì em đã lấy táo tình của con em mướn anh rồi.” Vậy ông ăn nằm với bà đêm đó. 17 Ðức Chúa Trời nhậm lời của Lê-a. Bà mang thai và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ năm. 18 Lê-a nói, “Ðức Chúa Trời đã trả công[g] cho tôi, vì tôi đã trao nữ tỳ của tôi cho chồng tôi.” Rồi bà đặt tên nó là I-sa-ca. 19 Lê-a lại mang thai nữa và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ sáu. 20 Bấy giờ Lê-a nói, “Ðức Chúa Trời đã ban cho tôi một món quà quý báu. Lần nầy chồng tôi sẽ nể tôi thôi, vì tôi đã sinh cho chàng sáu con trai.” Vậy bà đặt tên nó là Xê-bu-lun. 21 Sau đó bà sinh được một con gái và đặt tên nó là Ði-na.
22 Ðức Chúa Trời nhớ lại Ra-chên. Ðức Chúa Trời chữa lành bà và cho bà mang thai. 23 Bà có thai và sinh một con trai. Bà nói, “Ðức Chúa Trời đã cất bỏ nỗi tủi nhục của tôi.” 24 Bà đặt tên nó là Giô-sép và nói rằng, “Cầu xin Chúa cho con có thêm một đứa con trai nữa.”
Giao Ước giữa Gia-cốp và La-ban
25 Sau khi Ra-chên đã sinh Giô-sép rồi, Gia-cốp nói với La-ban, “Xin cha cho con ra đi, để con trở về quê hương con. 26 Xin cho con dẫn các vợ con của con đi nữa, vì những vợ con ấy mà con đã làm việc cho cha bao lâu nay, và cha cũng biết rõ là con đã làm việc cho cha như thế nào.”
27 Nhưng La-ban nói với ông, “Nếu cha được ơn trước mắt con, con cứ ở lại đây. Cha xem bói và biết rằng vì con mà Chúa đã ban phước cho cha. 28 Con hãy ấn định công giá, bao nhiêu cha cũng trả.”
29 Gia-cốp trả lời ông, “Chính cha biết rất rõ là con đã làm việc cho cha tận tụy như thế nào, qua công sức của con mà đàn súc vật của cha giờ đây đã ra sao. 30 Trước khi con đến đây, đàn súc vật của cha chỉ là một bầy nhỏ, mà giờ đây chúng đã trở nên đông đúc bội phần. Con xúc tiến làm việc gì thì Chúa ban phước cho việc đó. Nhưng bây giờ, khi nào con mới có thể lo cho gia đình con được?”
31 La-ban nói, “Cha phải trả công cho con như thế nào?”
Gia-cốp đáp, “Cha sẽ khỏi trả cho con điều gì. Nếu cha đồng ý đề nghị nầy, con sẽ tiếp tục chăn giữ đàn súc vật của cha: 32 Hôm nay xin cha cho con đi qua các đàn súc vật của cha. Hễ con chiên nào có lông lấm chấm, hoặc đốm, hoặc lông đen, và những con dê nào lông có đốm, hoặc lấm chấm, thì con sẽ tách chúng ra, và chúng sẽ là công giá của con. 33 Như vậy sau này, khi cha đến xét công giá của con, thì lòng thành của con sẽ được chứng minh. Nếu cha tìm thấy một con chiên hay một con dê nào không có lông lấm chấm, hoặc không đốm, hoặc không phải lông đen, thì cha coi như con đã ăn cắp nó của cha vậy.”
34 La-ban đáp, “Tốt lắm. Hãy làm như con nói.”
Vỏ Quýt Dày Có Móng Tay Nhọn
35 Nhưng ngày hôm đó La-ban cho tách khỏi đàn súc vật của ông tất cả những con dê đực có vằn và có đốm, tất cả những con dê cái có lông lấm chấm hoặc có đốm, luôn với những con dê có đốm lông trắng, và tất cả những con chiên có lông đen, rồi trao chúng cho các con trai ông chăn giữ. 36 Kế đó ông bảo các con trai ông dẫn chúng đi thật xa, cách đàn súc vật do Gia-cốp chăn giữ khoảng ba ngày đường, rồi La-ban trao đàn chiên và dê còn lại của ông cho Gia-cốp chăn giữ.
37 Bấy giờ Gia-cốp lấy các cành bạch dương, cành hạnh, và cành dẻ còn tươi, tước vỏ chúng để lộ phần lõi trắng ra. 38 Ông lấy các cành lộ lõi trắng ấy để trong các máng nước trước mắt các súc vật, tức nơi các súc vật đến uống nước, vì mỗi khi chúng đến uống nước, chúng thường giao cấu với nhau. 39 Khi các súc vật giao cấu với nhau trước các cành lộ lõi trắng ấy, chúng đẻ ra con lông có vằn, lấm chấm, hoặc đốm.
40 Gia-cốp tách rời những con chiên cái trong đàn súc vật của La-ban ra và cho chúng trông thấy các con chiên và con dê có sọc hoặc có lông đen khi chúng giao cấu. Sau đó Gia-cốp tách riêng đàn súc vật của ông ra, và không để chúng ở chung với đàn súc vật của La-ban. 41 Mỗi khi các con mập mạnh đến uống nước, Gia-cốp đặt các cành lộ lõi trắng vào trong máng nước trước mắt chúng, để chúng trông thấy các cành ấy khi giao cấu. 42 Nhưng khi các con ốm yếu đến uống nước, ông không để các cành ấy trước mắt chúng. Vì thế những con yếu sinh ra đều thuộc về La-ban, còn những con khỏe mạnh đều thuộc về Gia-cốp. 43 Vậy ông trở nên rất giàu. Ông có các đàn súc vật đông đúc, các tôi trai và tớ gái, cùng các lạc đà và lừa.
SỰ CHUẨN BỊ CHO CHỨC VỤ CỦA ÐỨC CHÚA JESUS
(1:1–13)
Giăng Báp-tít Rao Giảng
(Mat 3:1-12; Lu 3:1-18; Gg 1:19-28)
1 Bắt đầu Tin Mừng của Ðức Chúa Jesus Christ, Con Ðức Chúa Trời, 2 như đã chép trong sách của Tiên Tri Ê-sai,
“Này, Ta sai sứ giả Ta đi trước ngươi,
Người sẽ dọn đường cho ngươi.
3 Tiếng của người kêu lên trong đồng hoang,
‘Hãy chuẩn bị con đường của Chúa,
Hãy làm bằng thẳng các lối đi của Ngài.’”[a]
4 Giăng đến làm báp-têm trong đồng hoang và giảng về sự ăn năn tỏ ra qua phép báp-têm để được tha tội. 5 Mọi người ở miền Giu-đê và mọi người ở Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông; họ xưng tội và được ông làm báp-têm dưới Sông Giô-đanh. 6 Lúc ấy Giăng mặc một áo choàng bằng lông lạc đà và thắt lưng bằng một dây da; ông ăn châu chấu và mật ong rừng. 7 Ông giảng rằng, “Một Ðấng quyền năng hơn tôi sắp đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống và mở dây giày cho Ngài. 8 Tôi làm báp-têm cho các người bằng nước, nhưng Ngài sẽ làm báp-têm cho các người bằng Ðức Thánh Linh.”
Chúa Chịu Báp-têm
(Mat 3:13-17; Lu 3:21-22)
9 Trong những ngày ấy Ðức Chúa Jesus từ Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê đến và được Giăng làm báp-têm dưới Sông Giô-đanh. 10 Vừa khi ra khỏi nước, Ngài thấy các từng trời mở ra, và Ðức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu. 11 Bấy giờ có tiếng từ trời phán rằng, “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.”
Chúa Chịu Cám Dỗ
(Mat 4:1-11; Lu 4:1-13)
12 Ðức Thánh Linh liền đưa Ngài vào đồng hoang. 13 Ngài ở trong đồng hoang bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ. Ngài ở chung với các thú rừng, và các thiên sứ hầu hạ Ngài.
chức vụ của Ðức Chúa Jesus tại ga-li-lê
(1:14 – 9:51)
Chúa Bắt Ðầu Chức Vụ tại Ga-li-lê
(Mat 4:12-17; Lu 4:14-15)
14 Sau khi Giăng bị tù, Ðức Chúa Jesus đến miền Ga-li-lê giảng Tin Mừng của Ðức Chúa Trời 15 rằng, “Kỳ đã trọn, vương quốc Ðức Chúa Trời đang đến gần, hãy ăn năn và tin nhận Tin Mừng.”
Các Môn Ðồ Ðầu Tiên
(Mat 4:18-22; Lu 5:1-11)
16 Ðang khi đi dọc bờ biển Ga-li-lê, Ngài thấy Si-môn và Anh-rê em ông đang bủa lưới xuống biển, vì họ là ngư phủ, 17 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm các ngươi thành những tay đánh lưới người.” 18 Họ lập tức bỏ lưới và theo Ngài. 19 Ði thêm một quãng nữa, Ngài thấy Gia-cơ con của Xê-bê-đê và Giăng em ông ấy đang vá lưới trên thuyền. 20 Ngài liền gọi họ; họ để Xê-bê-đê cha họ ở lại trên thuyền với các công nhân và đi theo Ngài.
Chúa Chữa Lành Người Bị Quỷ Ám
(Lu 4:31-37)
21 Họ vào Thành Ca-bê-na-um; đến ngày Sa-bát, Ngài liền đi vào hội đường và giảng dạy. 22 Người ta lấy làm lạ về sự giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một người đầy thẩm quyền, chứ không như những thầy dạy giáo luật.
23 Lúc bấy giờ trong hội đường có một người đã bị tà linh ô uế nhập; người ấy kêu lên 24 rằng, “Lạy Ðức Chúa Jesus người Na-xa-rét, chúng tôi nào có đụng chạm gì tới Ngài chăng? Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai. Ngài là Ðấng Thánh của Ðức Chúa Trời.”
25 Nhưng Ðức Chúa Jesus quở nó rằng, “Hãy im đi và ra khỏi người này!” 26 Quỷ ô uế vật người ấy ngã xuống co giựt liên lục, rồi hét lên một tiếng lớn, và ra khỏi người ấy. 27 Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán với nhau, “Ðiều gì đây? Quả là một sự dạy dỗ mới đầy quyền năng. Ông ấy ra lịnh cho các tà linh ô uế, và chúng vâng lệnh ông ta.” 28 Danh tiếng Ngài lập tức được đồn ra khắp miền Ga-li-lê.
Chúa Chữa Lành Nhiều Người
(Mat 8:14-17; Lu 4:38-41)
29 Vừa ra khỏi hội đường, họ đi ngay đến nhà của Si-môn và Anh-rê, có Gia-cơ và Giăng đi cùng. 30 Khi ấy nhạc mẫu của Si-môn đang bị sốt, nằm trên giường; họ liền thưa với Ðức Chúa Jesus về bịnh tình của bà. 31 Ngài đến, nắm tay bà, và đỡ dậy; cơn sốt lìa khỏi bà, và bà phục vụ họ. 32 Tối hôm đó, khi mặt trời vừa lặn, người ta đem đến Ngài mọi người đau yếu và bị quỷ ám. 33 Cả thành tụ họp nhau trước cửa. 34 Ngài chữa lành nhiều người bị mọi thứ bịnh tật và đuổi nhiều quỷ ra khỏi người ta. Ngài không cho phép các quỷ nói tiếng nào, vì chúng biết Ngài là ai.
Chúa Giảng Dạy ở Ga-li-lê
(Lu 4:42-44)
35 Sáng hôm sau, khi trời vẫn còn tối, Ngài thức dậy, đi ra, đến một nơi vắng vẻ, và cầu nguyện tại đó. 36 Si-môn và các đồng bạn của ông đi tìm Ngài; 37 khi tìm được Ngài, họ nói với Ngài, “Mọi người đều tìm Thầy.”
38 Ngài nói với họ, “Chúng ta hãy đến nơi khác, vào các thành lân cận, để Ta có thể giảng ở những nơi đó nữa, vì đó là lý do tại sao Ta đến.”
39 Vậy Ngài đến giảng trong các hội đường của họ khắp miền Ga-li-lê, và đuổi các quỷ ra.
Chúa Chữa Lành Người Phung
(Mat 8:1-4; Lu 5:12-16)
40 Khi ấy một người phung đến, van xin Ngài, quỳ trước mặt Ngài, và nói với Ngài, “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch.”
41 Ngài động lòng thương xót, đưa tay chạm vào ông, và nói với ông, “Ta muốn, hãy sạch đi.” 42 Ngay lập tức bịnh phung lìa khỏi ông, và ông được sạch. 43 Sau khi nghiêm dặn ông, Ngài liền cho ông đi về. 44 Ngài đã dặn ông rằng, “Này, đừng nói với ai điều gì, nhưng hãy đi trình diện với tư tế, và dâng lễ vật cho sự sạch phung của ngươi theo như Môi-se đã truyền, để làm chứng cho họ.” 45 Nhưng ông đi ra, bắt đầu nói cho nhiều người biết, và đồn chuyện ấy ra, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành, nhưng phải ở những nơi hoang vắng, và người ta từ khắp nơi kéo đến với Ngài.
Vua Tri Ơn Mạc-đô-chê
6 Tối hôm đó vua ngủ không được; vua truyền lệnh mang các sách kỷ yếu và sách sử ký đến đọc cho vua nghe. 2 Người ta thấy trong đó có chép thể nào Mạc-đô-chê đã báo cáo âm mưu của Bích-than và Tê-rếch, hai quan thái giám của vua, những người có trách nhiệm canh giữ cung môn, đã âm mưu ám sát Vua A-ha-suê-ru. 3 Vua hỏi, “Mạc-đô-chê có được tưởng thưởng hay tuyên dương gì vì công trạng ấy chăng?”
Các cận thần của vua đáp, “Ông ấy chẳng được gì cả.”
4 Vua hỏi, “Ai đang ở ngoài nội điện?”
Vả, bấy giờ Ha-man vừa bước vào tiền sảnh của nội điện để đến tâu với vua, xin phép treo cổ Mạc-đô-chê trên mộc hình ông đã dựng. 5 Vì thế các cận thần của vua tâu với vua, “Tâu, có Ha-man ở ngoài đó. Ông ấy đang đứng ở sân chầu.”
Vua phán, “Hãy truyền cho ông ấy vào.”
6 Vậy Ha-man vào và vua nói với ông, “Người mà trẫm muốn tôn trọng thì phải làm gì cho người ấy?”
Ha-man tự nhủ thầm, “Có ai mà vua muốn tôn trọng hơn ta chứ?” 7 Vì thế Ha-man tâu với vua, “Người mà hoàng thượng muốn tôn trọng thì xin hoàng thượng 8 cho mang lấy bộ triều phục của hoàng thượng mặc, con ngựa hoàng thượng cỡi, và vương miện hoàng thượng đội trên đầu đến. 9 Sau đó xin hoàng thượng truyền cho vị thượng quan được tôn trọng nhất, để vị ấy mặc bộ áo mão đó cho người được hoàng thượng muốn tôn trọng, rồi để vị ấy dắt con ngựa có người được hoàng thượng muốn tôn trọng cỡi, đi dạo khắp quảng trường ở kinh đô, và hô to trước mặt người ấy rằng: ‘Ðây là cách đãi ngộ cho người được vua muốn tôn trọng.’”
10 Bấy giờ vua nói với Ha-man, “Hãy mau mau lấy bộ triều phục và ngựa, y như lời ngươi nói, mặc cho Mạc-đô-chê người Do-thái đang ngồi ở cổng hoàng cung. Tất cả những gì ngươi nói, chớ bỏ sót điều nào.”
11 Vậy Ha-man lãnh lấy bộ triều phục và ngựa. Ông mặc bộ triều phục ấy cho Mạc-đô-chê, rồi dắt con ngựa có Mạc-đô-chê cỡi, đi dạo khắp quảng trường của kinh đô và hô to, “Ðây là cách đãi ngộ cho người được vua muốn tôn trọng.”
12 Sau đó Mạc-đô-chê trở lại cổng hoàng cung, còn Ha-man thì vội vàng đi về nhà ông, lòng đầy sầu thảm và đầu trùm lại. 13 Ha-man thuật lại cho Xê-rếch vợ ông và cho các bạn ông về những gì đã xảy ra cho ông. Các cố vấn của ông và Xê-rếch vợ ông nói với ông, “Nếu đó là Mạc-đô-chê, dòng dõi của dân Do-thái, thì hoạn lộ của ông đã bắt đầu suy bại rồi. Ông sẽ không thắng nổi hắn đâu, nhưng ông chắc chắn sẽ thất bại trước mặt hắn.”
14 Ðang khi họ còn nói chuyện với ông, các quan thái giám của vua đến mời Ha-man phải mau lẹ đến dự tiệc do Ê-xơ-tê đã chuẩn bị.
Lời Mở Ðầu
1 Phao-lô, một đầy tớ[a] của Ðức Chúa Jesus Christ, được kêu gọi làm sứ đồ, được biệt riêng để rao truyền Tin Mừng của Ðức Chúa Trời, 2 là Tin Mừng đã được hứa từ trước qua các vị tiên tri của Ngài trong Kinh Thánh, 3 liên quan đến Con Ngài, mà về phương diện phàm nhân thì được sinh ra từ dòng dõi Vua Ða-vít, 4 còn về phương diện Linh của sự thánh khiết[b] thì được xác chứng là Con Ðức Chúa Trời đầy quyền năng qua sự sống lại từ cõi chết, đó là Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, 5 qua Ngài chúng tôi nhận được ân sủng và chức vụ sứ đồ để vì danh Ngài dẫn dắt mọi dân tin thờ Chúa và vâng phục Ngài, 6 trong đó có anh chị em, những người được gọi để thuộc về Ðức Chúa Jesus Christ, 7 kính gởi tất cả những người được Ðức Chúa Trời yêu thương, được gọi làm thánh đồ ở Rô-ma. Nguyện ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, là Chúa, đến cùng anh chị em.
Lời Cầu Nguyện Cảm Tạ
8 Trước hết, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi về tất cả anh chị em, vì đức tin của anh chị em đã được truyền tụng khắp thế giới. 9 Vì Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi phục vụ với tất cả tâm hồn trong việc rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, có thể làm chứng cho tôi rằng tôi hằng nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. 10 Tôi luôn cầu xin rằng, nếu đẹp ý Ðức Chúa Trời, xin Ngài mở đường cho tôi đến thăm anh chị em. 11 Vì tôi rất mong được gặp anh chị em để có thể chia sẻ với anh chị em một số ơn phước thuộc linh, hầu làm vững mạnh đức tin anh chị em, 12 tức là khi tôi được ở giữa anh chị em, chúng ta có thể khích lệ đức tin lẫn nhau, tức đức tin của anh chị em và đức tin của tôi.
13 Thưa anh chị em,[c] tôi muốn anh chị em biết rằng, tôi đã định đến thăm anh chị em nhiều lần, để có thể gặt hái những kết quả giữa anh chị em như tôi đã gặt hái giữa các dân ngoại khác, nhưng lần nào tôi cũng gặp trở ngại.
14 Tôi mắc nợ cả người Hy-lạp[d] lẫn người man rợ, cả người thông thái lẫn người khờ dại. 15 Vì thế tôi nóng lòng muốn giảng Tin Mừng cho anh chị em, những người ở Rô-ma.
Quyền Năng Ðức Chúa Trời Tỏ Ra Qua Tin Mừng
16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Mừng đâu, vì đó là quyền năng Ðức Chúa Trời để cứu mọi người có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.[e] 17 Vì trong Tin Mừng ấy sự công chính của Ðức Chúa Trời được biểu lộ, từ đức tin đến đức tin,[f] như có chép rằng,
“Người công chính sẽ sống bởi đức tin.”[g]
CẢ NHÂN LOẠI PHẢI CHỊU ÐỨC CHÚA TRỜI PHÁN XÉT
(1:18 - 3:20)
Tội Lỗi của Nhân Loại
18 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời từ trời đã biểu lộ để trừng phạt mọi hình thức vô luân và gian ác của những kẻ dùng những biện pháp gian ác đàn áp sự thật. 19 Vì những gì con người có thể biết về Ðức Chúa Trời đã được bày tỏ cho họ rồi, bởi Ðức Chúa Trời đã bày tỏ cho họ. 20 Thật vậy từ khi dựng nên trời đất, qua những gì đã được dựng nên, con người đã thấy rõ và nhận biết những gì không thấy được về Ngài, như quyền năng đời đời và thần tính của Ngài, vì thế họ không còn lý do để bào chữa. 21 Vì dù họ đã biết Ðức Chúa Trời, họ vẫn không chịu tôn vinh Ngài là Ðức Chúa Trời và biết ơn Ngài; ngược lại, đầu óc họ cứ suy luận viển vông, tâm trí điên rồ của họ đã trở nên u tối. 22 Họ cho mình là khôn ngoan nhưng đã trở nên điên dại. 23 Họ đã đánh đổi vinh hiển của Ðức Chúa Trời không hề hư nát cho những hình tượng của con người hay hư nát, hoặc của chim chóc, súc vật,[h] và rắn rết.[i]
24 Vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng của lòng họ, để họ sa vào những ô uế, làm nhục thân thể của nhau. 25 Họ đã đánh đổi chân lý của Ðức Chúa Trời để lấy sự giả dối; họ thờ phượng và phục vụ loài thọ tạo thay vì Ðấng Tạo Hóa, Ðấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.
26 Chính vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng đồi bại của họ. Ngay cả phụ nữ của họ cũng đã đổi cách chung đụng xác thịt tự nhiên để theo cách phản tự nhiên. 27 Tương tự, đàn ông cũng đã bỏ cách chung đụng xác thịt tự nhiên với đàn bà mà un đốt sự thèm khát nhục dục với nhau; đàn ông làm những chuyện đồi bại với đàn ông, do đó họ phải chuốc lấy hình phạt tương xứng với hành động sai lầm của họ.
28 Vì họ không coi sự nhận biết Ðức Chúa Trời là trọng, nên Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho một tâm trí bại hoại, để làm những điều không nên làm. 29 Lòng họ đầy mọi thứ bất chính, gian ác, tham lam, và hiểm độc. Họ đầy sự ganh tị, sát nhân, gây gổ, lừa đảo, và xảo quyệt. Họ nói hành, 30 vu khống, ghét Ðức Chúa Trời, xấc xược, kiêu căng, khoác lác, giỏi tạo ra điều ác, không vâng lời cha mẹ, 31 không chút lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương.
32 Dù họ đã biết rõ luật của Ðức Chúa Trời rằng hễ ai làm những việc như thế thì đáng chết, thế mà không những chính họ đã làm những điều ấy, mà còn tán thành những người khác làm những điều ấy nữa.
Copyright © 2011 by Bau Dang