Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 26

I-sác và A-bi-mê-léc

26 Lúc ấy trong xứ xảy ra một nạn đói, ngoài nạn đói đã xảy ra trước kia trong thời Áp-ra-ham. I-sác dọn đến Ghê-ra, và xin A-bi-mê-léc vua dân Phi-li-tin cho tạm trú. Chúa hiện ra với ông và phán, “Ðừng xuống Ai-cập, nhưng hãy ở trong xứ Ta sẽ chỉ cho. Hãy sống trong xứ nầy như một kiều dân. Ta sẽ ở với ngươi và ban phước cho ngươi, vì Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi tất cả những vùng đất nầy. Ta sẽ làm trọn lời thề Ta đã thề với Áp-ra-ham cha ngươi. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông như sao trên trời và sẽ ban cho dòng dõi ngươi tất cả vùng đất nầy. Rồi mọi dân tộc trên thế gian sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước, vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta và gìn giữ các mạng lịnh, điều răn, quy tắc, và luật lệ Ta.”

Vậy I-sác cứ ở tại Ghê-ra. Khi những đàn ông địa phương đến trầm trồ với ông về vợ ông, ông bảo, “Nàng là em gái tôi,” mà không dám nói, “Nàng là vợ tôi,” vì ông nghĩ, “Nếu mình nói nàng là vợ mình, bọn đàn ông địa phương chắc sẽ giết mình để cướp Rê-be-ca, vì nàng là một phụ nữ rất đẹp.”

Sau khi I-sác đã ở đó khá lâu, một ngày kia A-bi-mê-léc vua người Phi-li-tin tình cờ nhìn qua cửa sổ và trông thấy I-sác đang âu yếm Rê-be-ca vợ ông. A-bi-mê-léc liền cho triệu I-sác đến và nói, “Thì ra nàng là vợ ông! Tại sao ông lại bảo, ‘Nàng là em gái tôi’?”

I-sác nói với ông, “Bởi vì tôi nghĩ tôi có thể bị mất mạng vì cớ nàng.”

10 A-bi-mê-léc nói, “Ông đã làm gì cho chúng tôi thế? Lỡ có người nào trong dân đến ăn nằm với vợ ông, thì ông đã làm cho chúng tôi phải mang tội.” 11 Vì vậy A-bi-mê-léc truyền lịnh cho toàn dân của ông, “Hễ ai đụng đến người đàn ông nầy và vợ của ông ấy sẽ bị xử tử.”

I-sác Ðược Chúa Ban Phước

12 I-sác gieo trồng trong xứ ấy và năm đó ông thu hoạch được gấp trăm lần, vì Chúa ban phước cho ông. 13 Ông trở nên giàu có; của cải cứ mỗi ngày một gia tăng, đến độ ông trở thành một người rất giàu có. 14 Ông có nhiều đàn chiên, đàn bò, và rất đông đầy tớ, đến nỗi người Phi-li-tin sinh lòng ganh ghét ông. 15 Những giếng nước do các đầy tớ của Áp-ra-ham cha ông đã đào trước kia đều bị người Phi-li-tin lấp đất cho tắt nghẽn. 16 Ðã thế A-bi-mê-léc còn nói với I-sác, “Ông hãy dọn ra khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã trở nên giàu mạnh hơn chúng tôi.”

17 I-sác bèn rời khỏi xứ đó, đến dựng lều trong Thung Lũng Ghê-ra và định cư ở đó. 18 I-sác cho đào lại các giếng đã được đào trong thời Áp-ra-ham cha ông, tức những giếng đã bị người Phi-li-tin lấp đất sau khi cha ông qua đời. Ông lấy tên mà cha ông đã đặt cho các giếng đó để gọi chúng.

19 Các đầy tớ của I-sác đào thêm một giếng nữa trong thung lũng, và gặp được một giếng có nước mạch. 20 Nhưng bọn chăn bầy của dân địa phương ở Ghê-ra đến gây sự và bảo, “Mạch nước nầy là của chúng tôi.” Ông bèn đặt tên cho giếng ấy là Ê-xéc,[a] vì chúng đã giành giựt của ông. 21 Kế đó các đầy tớ của ông đào một giếng khác, và ông cũng bị người ta đến tranh giành nữa. Ông đặt tên cho giếng ấy là Sít-na.[b] 22 Ông bỏ chỗ đó và đi đào một giếng khác. Ðến giếng nầy thì ông không bị người ta đến tranh giành, nên ông đặt tên giếng đó là Rê-hô-bốt,[c] và nói, “Bây giờ Chúa ban cho chúng ta một nơi rộng rãi thênh thang. Chúng ta sẽ thịnh vượng trong đất nầy.”

Chúa Hứa Ban Phước cho I-sác

23 Sau đó I-sác bỏ chỗ ấy và dọn lên Bê-e Sê-ba. 24 Ðêm đó Chúa hiện ra với ông và phán, “Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham cha ngươi. Ðừng sợ, vì Ta ở với ngươi. Vì cớ Áp-ra-ham tôi tớ Ta, Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm dòng dõi ngươi sinh sôi nảy nở ra nhiều.” 25 I-sác xây một bàn thờ tại đó và kêu cầu danh Chúa. Ông dựng lều để ở tại đó, và các đầy tớ của I-sác cũng đào một giếng ở đó.

Giao Ước giữa I-sác và A-bi-mê-léc

26 Bấy giờ A-bi-mê-léc từ Ghê-ra đến thăm I-sác, có A-hu-xát cố vấn[d] của ông, và Phi-côn chỉ huy trưởng quân đội của ông, cùng đi theo. 27 I-sác nói, “Quý vị đã ghét tôi và đuổi tôi ra khỏi xứ của quý vị; bây giờ quý vị còn tìm đến tôi làm gì?”

28 Họ đáp, “Chúng tôi đã thấy rõ Chúa ở với ông, nên chúng tôi đã bàn với nhau rằng giữa chúng ta phải có một lời thề với nhau, tức giữa ông và chúng tôi. Chúng tôi muốn lập một giao ước với ông, 29 để ông sẽ không làm hại chúng tôi, giống như chúng tôi đã không đụng chạm gì đến ông, mà chỉ lấy lòng tốt đối với ông, và đã để ông ra đi bình an. Bây giờ ông là người được Chúa ban phước.”

30 I-sác làm một bữa tiệc thết đãi họ, và họ ăn uống với nhau. 31 Sáng hôm sau họ dậy sớm, hai bên thề với nhau, rồi I-sác tiễn họ lên đường, và họ đã ra đi bình an.

32 Cũng ngày hôm đó các đầy tớ của I-sác đến báo tin cho ông về cái giếng họ đang đào, “Chúng tôi đã đào trúng mạch nước.” 33 Ông bèn đặt tên cho giếng đó là Sê-ba. Vì thế thành đó mang tên là Bê-e Sê-ba cho đến ngày nay.

Ê-sau Lập Gia Ðình

34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, chàng cưới Giu-đi con gái Bê-e-ri người Hít-ti, và Ba-sê-mát con gái Ê-lôn người Hít-ti, làm vợ. 35 Hai người phụ nữ ấy đã làm cho I-sác và Rê-be-ca đau lòng không lời nào tả xiết.

Ma-thi-ơ 25

Ngụ Ngôn về Mười Trinh Nữ

25 “Khi ấy vương quốc thiên đàng sẽ giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong các cô ấy, có năm cô dại và năm cô khôn. Năm cô dại cầm đèn đi nhưng không đem dầu theo với mình. Nhưng năm cô khôn mang bình dầu theo với đèn của mình. Vì chàng rể đến trễ, nên các cô buồn ngủ và ngủ thiếp đi. Ðến nửa đêm có tiếng kêu lớn, ‘Kìa, chàng rể đến kia. Hãy mau mau ra đón.’ Bấy giờ tất cả các trinh nữ đều thức dậy và khêu tim đèn của mình lên.

Các cô dại nói với các cô khôn, ‘Xin các chị cho chúng tôi ít dầu, vì đèn chúng tôi sắp tắt.’

Nhưng các cô khôn đáp, ‘Không được, e không đủ dầu cho đèn của chúng tôi và đèn của các chị. Chi bằng các chị hãy đến những người bán dầu mà mua là hơn.’ 10 Ðang khi các cô ấy đi mua dầu, chàng rể đến, và những ai đã sẵn sàng đều cùng chàng rể vào dự tiệc cưới; rồi các cửa đóng lại. 11 Lát sau các trinh nữ kia cũng đến và gọi, ‘Chủ ơi, chủ ơi, xin mở cửa cho chúng tôi.’ 12 Nhưng chủ đáp, ‘Thú thật với các cô, tôi không biết các cô.’ 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày cũng không biết giờ.”

Ngụ Ngôn về Ba Ðầy Tớ và Các Ta-lâng

(Lu 19:11-27)

14 “Vương quốc thiên đàng giống như người kia sắp đi xa. Ông gọi các đầy tớ của ông đến và giao của cải ông cho họ. 15 Ông giao cho người này năm ta-lâng, người kia hai ta-lâng, và người nọ một ta-lâng, tùy theo khả năng mỗi người, rồi ông vội vã lên đường. 16 Người nhận năm ta-lâng đi kinh doanh, và làm lợi thêm năm ta-lâng. 17 Tương tự người nhận hai ta-lâng cũng làm lợi thêm hai ta-lâng. 18 Nhưng người nhận một ta-lâng đi đào một lỗ dưới đất, và chôn số tiền của chủ.

19 Sau một thời gian khá lâu, chủ các đầy tớ ấy trở về và tính sổ với họ. 20 Bấy giờ người nhận năm ta-lâng đến, mang theo năm ta-lâng nữa, và nói, ‘Thưa chủ, chủ đã giao cho tôi năm ta-lâng; xin chủ xem đây, tôi đã làm lợi năm ta-lâng nữa.’

21 Chủ nói với ông, ‘Khá lắm, đầy tớ tốt và trung tín. Ông đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ giao cho ông quản lý nhiều việc hơn. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ mình.’

22 Người nhận hai ta-lâng cũng bước đến và nói, ‘Thưa chủ, chủ đã giao cho tôi hai ta-lâng; xin chủ xem đây, tôi đã làm lợi hai ta-lâng nữa.’

23 Chủ nói với ông, ‘Khá lắm, đầy tớ tốt và trung tín. Ông đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ giao cho ông quản lý nhiều việc hơn. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ mình.’

24 Kế đó người nhận một ta-lâng cũng đến và nói, ‘Thưa chủ, tôi biết chủ là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ không gieo, khèo trong chỗ không vãi, 25 nên tôi sợ và đi chôn ta-lâng của chủ dưới đất. Này, của chủ đây, tôi trả lại chủ.’

26 Nhưng chủ đáp, ‘Hỡi đầy tớ gian tà và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ không gieo và khèo trong chỗ không vãi phải không? 27 Thế thì ngươi phải đem số tiền của ta gởi vào ngân hàng, để khi ta trở về, ta sẽ nhận được cả vốn lẫn lời chứ. 28 Vậy hãy lấy ta-lâng của nó và cho người có mười ta-lâng. 29 Vì ai có sẽ được cho thêm để sẽ có dư dật, nhưng ai không có thì ngay cả những gì người ấy đang có cũng sẽ bị lấy đi. 30 Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra nơi tối tăm, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng.’”

Cuộc Phán Xét Cuối Cùng

31 “Khi Con Người ngự đến trong vinh quang của mình với tất cả các thiên sứ thánh[a] hộ giá, bấy giờ Người sẽ ngồi trên ngai vinh hiển của mình. 32 Mọi dân tộc sẽ tụ họp trước mặt Người. Người sẽ tách họ ra như người chăn tách chiên và dê ra. 33 Người sẽ để chiên bên phải và dê bên trái.

34 Bấy giờ Vua sẽ phán với những người ở bên phải, ‘Hỡi những người được Cha Ta ban phước, hãy đến hưởng vương quốc đã được chuẩn bị sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất, 35 vì Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp đãi Ta; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã mặc cho Ta; Ta đau ốm, các ngươi đã thăm nom Ta; Ta bị giam cầm, các ngươi đã đến viếng Ta.’

37 Bấy giờ những người công chính thưa rằng, ‘Lạy Chúa, đâu có khi nào chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn hoặc thấy Chúa khát mà cho uống? 38 Hay là đâu có khi nào chúng con thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đãi hoặc bị trần truồng mà mặc cho? 39 Hoặc đâu có khi nào chúng con thấy Chúa đau ốm hay bị giam cầm mà thăm viếng?’

40 Vua trả lời và phán với họ, ‘Quả thật, Ta nói với các ngươi, hễ các ngươi đã làm những việc ấy cho một người nhỏ nhất trong các anh em này của Ta, các ngươi đã làm cho Ta.’

41 Sau đó Vua phán với những người ở bên trái, ‘Hỡi những kẻ bị nguyền rủa, hãy lui ra khỏi Ta, và vào lửa đời đời đã dành sẵn cho Ác Quỷ và các quỷ sứ của nó, 42 vì Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho Ta uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp đãi Ta; Ta bị trần truồng, các ngươi đã không mặc cho Ta; Ta đau ốm và bị giam cầm, các ngươi đã không thăm viếng Ta.’

44 Bấy giờ họ cũng trả lời, ‘Lạy Chúa, đâu có khi nào chúng tôi thấy Chúa bị đói hoặc bị khát hoặc là khách lạ hoặc bị trần truồng hoặc bị đau ốm hoặc bị giam cầm mà không giúp đỡ Chúa?’

45 Bấy giờ Vua phán với họ rằng, ‘Quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi đã không làm những việc ấy cho một người nhỏ nhất trong những người này, các ngươi đã không làm cho Ta.’

46 Sau đó những kẻ ấy sẽ đi vào sự hình phạt đời đời, còn những người công chính sẽ vào hưởng sự sống đời đời.”

Ê-xơ-tê 2

Ê-xơ-tê Ðược Chọn Làm Hoàng Hậu

Sau những việc ấy khi cơn giận của Vua A-ha-suê-ru đã nguôi ngoai, vua nhớ đến Vả-thi và những việc bà đã làm; ông cũng nhớ đến sắc lệnh ông đã ban ra để xử tội bà. Bấy giờ các quan hầu cận của vua nói, “Phải tìm cho hoàng thượng những trinh nữ trẻ đẹp. Xin hoàng thượng bổ nhiệm các quan đặc nhiệm ở tất cả các tỉnh trong vương quốc của hoàng thượng, để họ tìm các thiếu nữ trẻ đẹp, đem về hậu cung ở Kinh Ðô Su-sa, và giao cho Hê-gai quan thái giám của hoàng thượng, người trông coi các phụ nữ trong cung; và xin cung cấp cho họ các mỹ phẩm họ cần. Sau đó hễ cô nào đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng lập người ấy làm hoàng hậu thế cho Vả-thi.” Ðề nghị ấy đẹp lòng vua, và vua làm như vậy.

Bấy giờ tại Kinh Ðô Su-sa có một người Do-thái tên là Mạc-đô-chê, con cháu của Giai-rơ, con cháu của Si-mê-i, con cháu của Kích, dòng dõi của Bên-gia-min. Người Bên-gia-min ấy bị bắt phải rời khỏi Giê-ru-sa-lem đi lưu đày cùng một lượt với Giê-cô-ni-a vua Giu-đa, tức vị vua đã bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đi lưu đày. Mạc-đô-chê đã nuôi Ha-đác-sa, cũng gọi là Ê-xơ-tê, con gái của chú ông, bởi vì nàng đã mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Nàng là một thiếu nữ duyên dáng và xinh đẹp. Khi cha mẹ nàng qua đời, ông đã nhận nàng làm con gái của ông. Vì thế khi lệnh vua được ban ra và sắc chỉ của vua được công bố, nhiều thiếu nữ trẻ đẹp đã bị tập họp về Kinh Ðô Su-sa, đặt dưới quyền quản lý của Hê-gai. Ê-xơ-tê cũng bị đem vào hoàng cung và ở dưới quyền quản lý của Hê-gai, người trông coi các phụ nữ trong cung. Người thiếu nữ ấy được cảm tình của ông, nên ông đối xử tốt với nàng. Ông vội vàng cung cấp các mỹ phẩm và lương thực cho nàng. Ông cũng chọn bảy cung nữ đang phục vụ trong hoàng cung để hầu hạ nàng và sắp đặt họ vào ở trong một phòng sang trọng nhất ở hậu cung. 10 Ê-xơ-tê không tiết lộ cho ai biết về gốc tích dân tộc hay dòng họ của nàng, vì Mạc-đô-chê đã dặn nàng không được tiết lộ gì với ai cả. 11 Hằng ngày Mạc-đô-chê đều tới lui trước sân hậu cung để dò la tin tức về Ê-xơ-tê hầu biết tình trạng của nàng ra sao.

12 Bấy giờ đã đến lúc các thiếu nữ lần lượt theo phiên vào hầu Vua A-ha-suê-ru. Số là mỗi người phải trải qua mười hai tháng chuẩn bị trước khi được vào hầu vua, như quy chế dành cho phụ nữ thời bấy giờ. Các cô ấy phải tẩm ướp da thịt mình bằng mộc dược trong sáu tháng, sáu tháng còn lại phải tẩm ướp da thịt mình với nước hoa và các thứ mỹ phẩm dành cho phụ nữ. 13 Khi một thiếu nữ được vào hầu vua, cô gái ấy có quyền xin bất cứ món gì trong hậu cung để mang theo khi ra mắt vua trong hoàng cung. 14 Chiều tối cô gái ấy được đưa vào, sáng hôm sau cô ấy sẽ trở ra và được đưa đến một hậu cung khác, dưới quyền của Sa-ách-ga quan thái giám của vua, người trông coi các cung phi. Cô gái ấy sẽ không được vào hầu vua nữa, nếu vua không sủng ái và cho gọi đích danh.

15 Khi đến phiên Ê-xơ-tê con gái của A-bi-ha-in, chú của Mạc-đô-chê, người nhận Ê-xơ-tê làm con gái của mình, đi vào hầu vua, nàng không yêu cầu món gì đặc biệt, ngoại trừ những gì Hê-gai quan thái giám của vua, người trông coi các phụ nữ trong cung, đề nghị. Lúc ấy tất cả những ai trông thấy nàng đều trầm trồ khen ngợi nàng. 16 Vậy Ê-xơ-tê được đem vào hầu Vua A-ha-suê-ru trong hoàng cung vào tháng mười, tức tháng Tê-bết, nhằm năm thứ bảy của triều đại vua. 17 Vua yêu thương Ê-xơ-tê hơn tất cả các phụ nữ khác. Trong tất cả các trinh nữ, nàng được vua yêu mến và sủng ái nhất. Vì thế vua đội mão triều trên đầu nàng và lập nàng làm hoàng hậu thay cho Vả-thi. 18 Vua mở tiệc linh đình khoản đãi tất cả triều thần và khanh tướng; đó là tiệc mừng tân Hoàng Hậu Ê-xơ-tê. Vua cũng cho các tỉnh được nghỉ lễ một ngày và ban tặng các phẩm vật xứng đáng với sự giàu sang phú quý của bậc đế vương.

Mạc-đô-chê Cứu Mạng Vua

19 Số là khi các trinh nữ được tập họp đợt hai, lúc ấy Mạc-đô-chê đang ngồi ở cổng hoàng cung. 20 Ê-xơ-tê vẫn chưa tiết lộ tông tộc hay dòng giống của bà, y như Mạc-đô-chê đã căn dặn bà, vì Ê-xơ-tê vẫn vâng lời Mạc-đô-chê như lúc bà còn được nuôi dạy. 21 Lúc ấy Mạc-đô-chê đang ngồi ở cổng hoàng cung, Bích-than và Tê-rếch, hai quan thái giám của vua, đã giận vua và lập mưu ám sát Vua A-ha-suê-ru. 22 Nhưng Mạc-đô-chê biết được điều đó. Ông báo tin đó cho Hoàng Hậu Ê-xơ-tê. Ê-xơ-tê liền tâu với vua và nói rằng bà biết được tin đó nhờ Mạc-đô-chê. 23 Sau khi vua cho điều tra và thấy âm mưu đó là thật, vua truyền treo cổ hai quan thái giám ấy trên cây mộc hình. Sự việc đó được ghi vào sách sử ký trước mặt vua.

Công Vụ Các Sứ đồ 25

Phao-lô Yêu Cầu Ðược Hoàng Ðế Xét Xử

25 Khi Phê-tu đến nhậm chức trong tỉnh được ba ngày, ông từ Sê-sa-rê đi lên Giê-ru-sa-lem. Các trưởng tế và những người lãnh đạo dân Do-thái đến tố cáo Phao-lô với ông. Họ khẩn nài ông cho họ một ân huệ là ông giải Phao-lô về Giê-ru-sa-lem, vì họ đã lập mưu phục kích giết ông ở dọc đường. Nhưng Phê-tu trả lời rằng Phao-lô đang bị giam ở Sê-sa-rê, và chính ông sẽ trở về đó sớm. Vì thế ông bảo, “Những người có thẩm quyền trong các ngươi hãy xuống đó gặp ta. Nếu các ngươi thấy người ấy phạm tội gì, các ngươi cứ việc tố cáo.”

Ông ở lại với họ khoảng tám hay mười ngày, rồi trở xuống Sê-sa-rê. Hôm sau ông ngồi vào ghế xử án ở tòa và truyền đem Phao-lô đến. Khi Phao-lô vừa đến, những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống ập đến vây lấy ông và tố cáo ông nhiều tội trọng, nhưng chẳng có bằng chứng nào cả.

Phao-lô đã nói khi tự biện hộ rằng, “Tôi không phạm luật nào của người Do-thái, cũng không phạm luật nào của đền thờ, và không phạm tội gì đối với hoàng đế.”[a]

Nhưng Phê-tu muốn được lòng người Do-thái nên hỏi Phao-lô, “Ngươi có muốn lên Giê-ru-sa-lem để ta xử việc này không?”

10 Phao-lô trả lời, “Tôi muốn được hầu tòa của hoàng đế. Ðó là nơi tôi phải được xét xử, vì quan đã thừa biết rằng tôi không làm điều gì phạm luật của người Do-thái. 11 Nếu tôi đã làm điều gì có tội, hoặc nếu tôi đã làm điều gì đáng chết, tôi quyết không từ chối chịu chết đâu. Nhưng nếu tôi không làm điều gì có tội như những người này đã cáo buộc, không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi yêu cầu được hoàng đế xét xử.”

12 Phê-tu tham khảo với hội đồng cố vấn của ông, rồi đáp, “Ngươi đã yêu cầu được hoàng đế xét xử, ngươi sẽ được hầu tòa của hoàng đế.”

Phao-lô Bị Ðưa Ra Xử Trước Mặt Vua Ạc-ríp-pa

13 Mấy ngày sau Vua Ạc-ríp-pa[b] và bà Bẹc-nít đến Sê-sa-rê để tỏ lòng hoan nghinh Phê-tu đến nhậm chức. 14 Vì họ ở lại đó nhiều ngày, Phê-tu trình với vua về vụ xét xử Phao-lô. Ông nói, “Có một tù nhân này Phê-lít để lại cho tôi. 15 Khi tôi lên Giê-ru-sa-lem các trưởng tế và các trưởng lão của dân Do-thái đã tố cáo hắn và yêu cầu tôi kết tội hắn. 16 Tôi đã trả lời họ rằng theo luật của người La-mã, tôi không thể giao nộp bị cáo trước khi bị cáo có cơ hội đối chất tận mặt với các nguyên cáo và có dịp biện hộ cho mình về những lời tố cáo. 17 Vì thế tôi đã mời họ đến đây, và tôi đã không chậm trễ, nhưng ngày hôm sau tôi đã ngồi vào tòa và truyền đem bị cáo đến. 18 Tuy nhiên khi các nguyên cáo đứng dậy buộc tội, tôi chẳng thấy họ buộc tội đương sự được một tội ác nào như tôi tưởng. 19 Họ chỉ bất đồng ý kiến với đương sự về những điều thuộc về tín ngưỡng của họ và về một ông Jesus nào đó đã chết rồi mà Phao-lô cứ quả quyết rằng vẫn còn sống. 20 Vì tôi không biết làm sao điều tra những điều này, nên tôi đã hỏi Phao-lô có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xét xử về những lời cáo buộc ấy không, 21 thì Phao-lô đã kháng cáo xin được giữ lại trong tù để chờ ngày được giải lên hoàng đế xét xử. Vì thế tôi đã truyền lịnh cứ giam đương sự trong tù, chờ đến ngày được giải lên hoàng đế.”

22 Vua Ạc-ríp-pa nói với Phê-tu, “Ta cũng muốn đích thân được nghe người ấy.”

Phê-tu đáp, “Ngày mai ngài sẽ nghe đương sự.”

23 Vậy hôm sau Vua Ạc-ríp-pa và bà Bẹc-nít tiến vào công đường một cách trọng thể, tháp tùng có các quan chức chỉ huy quân đội và các lãnh tụ trong thành. Phê-tu truyền lệnh đem Phao-lô đến. 24 Kế đó Phê-tu nói, “Tâu Vua Ạc-ríp-pa và kính thưa tất cả quý vị hiện diện với chúng tôi hôm nay. Người mà quý vị đang thấy đây là người đã bị toàn thể người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và ở đây yêu cầu tôi xét xử; họ đã kêu gào rằng đương sự không đáng sống nữa. 25 Nhưng tôi đã không tìm thấy đương sự có tội gì đáng chết, nhưng vì đương sự đã kháng cáo lên hoàng đế, nên tôi đã quyết định sẽ giải đương sự đến hoàng đế. 26 Nhưng tôi không có lý do cụ thể gì để tâu với chúa thượng, nên tôi đem đương sự ra trước tất cả quý vị, đặc biệt với ngài, tâu Vua Ạc-ríp-pa, để mong rằng sau khi tra xét, tôi có thể có được vài dữ liệu hầu viết sớ tâu trình. 27 Vì tôi thấy rằng giải nộp một tù nhân mà không nói rõ đương sự bị tố cáo về tội gì thì thật là phi lý.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang