Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 25

Áp-ra-ham Cưới Kê-tu-ra

25 Áp-ra-ham cưới một người vợ khác tên là Kê-tu-ra. Bà sinh cho ông Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bách, và Su-a. Giốc-san sinh Sê-ba và Ðê-đan. Các con trai của Ðê-đan là tổ phụ các tộc họ A-su-rim, Lê-tu-sim, và Lê-um-mim. Các con trai của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nốc, A-bi-đa, và Ên-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu của Kê-tu-ra. Áp-ra-ham cho tất cả những gì ông có cho I-sác. Nhưng đối với những con do các vợ kế của ông sinh ra thì khi còn sống ông cho họ của cải, rồi bảo họ dọn về hướng đông, cách xa I-sác, là con vợ chánh, mà lập nghiệp.

Áp-ra-ham Qua Ðời

Áp-ra-ham hưởng thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi. Áp-ra-ham trút hơi thở cuối cùng và qua đời trong tuổi già. Ông là một người cao niên trường thọ, hưởng trọn tuổi thọ của ông, và được quy về với tổ tiên ông. Hai con trai ông là I-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông trong hang Mạch-pê-la, trong cánh đồng của Ép-rôn con trai Xô-ha người Hít-ti, phía đông của Mam-rê. 10 Cánh đồng đó Áp-ra-ham đã mua của dân Hít-ti. Áp-ra-ham được chôn tại đó với Sa-ra vợ ông. 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Ðức Chúa Trời ban phước cho I-sác con trai ông. I-sác định cư tại vùng Giếng La-khai Roi.

Dòng Dõi Ích-ma-ên

12 Ðây là dòng dõi của Ích-ma-ên con trai Áp-ra-ham do Ha-ga, người Ai-cập, nữ tỳ của Sa-ra, sinh cho Áp-ra-ham. 13 Ðây là tên các con trai của Ích-ma-ên, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: Nê-ba-giốt con đầu lòng của Ích-ma-ên, kế đến là Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 14 Mích-ma, Ðu-ma, Mát-sa, 15 Ha-đát, Tê-ma, Giê-tua, Na-phích, và Kê-đê-ma. 16 Ðó là các con trai của Ích-ma-ên và đó là tên của họ, theo làng xã và theo địa danh họ dựng trại, tức mười hai thủ lãnh các chi tộc của họ.

17 Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Ông trút hơi thở cuối cùng và qua đời, rồi được quy về với tổ tiên ông. 18 Các con cháu ông định cư từ miền Ha-vi-la cho đến Su-rơ, tức cả vùng trước khi đến Ai-cập, nếu đi về hướng Át-su-rơ. Ông đã qua đời trước sự hiện diện của tất cả người thân của ông.[a]

Ê-sau và Gia-cốp Ðược Sinh Ra

19 Ðây là dòng dõi của I-sác con trai Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sinh I-sác. 20 Khi I-sác được bốn mươi tuổi, ông cưới Rê-be-ca con gái Bê-thu-ên, người A-ram ở Pa-đan A-ram. Nàng là em gái của La-ban người A-ram. 21 I-sác cầu nguyện với Chúa cho vợ ông, vì vợ ông hiếm muộn. Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông, nên Rê-be-ca vợ ông mang thai. 22 Các thai nhi trong dạ bà cứ đạp nhau, đến nỗi bà bảo, “Nếu cứ như thế nầy thì làm sao tôi chịu nổi?” Rồi bà cầu hỏi Chúa. 23 Chúa trả lời bà,

“Hai quốc gia đang ở trong dạ ngươi,
Hai dân tộc sẽ từ bụng ngươi thành hình;
Một dân sẽ mạnh hơn dân kia,
Ðứa lớn sẽ phục vụ đứa nhỏ.”

24 Ðến ngày bà sinh nở, người ta cho biết bà sẽ sinh đôi. 25 Ðứa bé ra trước da đỏ hồng, cả người đều đầy lông như một áo tơi bằng lông, vì thế người ta đặt tên nó là Ê-sau.[b] 26 Liền đó em nó cũng sinh ra, tay nắm gót của Ê-sau; nên người ta đặt tên nó là Gia-cốp.[c] I-sác được sáu mươi tuổi khi vợ ông sinh hai con trai nầy cho ông.

27 Khi hai đứa trẻ lớn lên, Ê-sau trở thành một thợ săn tài giỏi, suốt ngày dong ruổi ngoài đồng, còn Gia-cốp thì trầm tĩnh, sống quanh quẩn trong lều. 28 I-sác thương Ê-sau hơn vì ông thích ăn thịt rừng, nhưng Rê-be-ca thương Gia-cốp hơn.

Ê-sau Bán Quyền Trưởng Tử

29 Một ngày kia Gia-cốp đang nấu cháo đậu đỏ; Ê-sau ở ngoài đồng về và đang đói bụng. 30 Ê-sau nói với Gia-cốp, “Em cho anh ăn cháo gì đo đỏ đó đi, vì anh đói quá rồi.” Bởi thế người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm.[d]

31 Gia-cốp đáp, “Nếu anh muốn ăn thì hôm nay anh bán quyền trưởng tử của anh cho em đi.”

32 Ê-sau đáp, “Nầy, anh đói sắp chết đến nơi rồi; quyền trưởng tử có giúp gì được cho anh chăng?”

33 Gia-cốp nói, “Nếu vậy thì trước hết anh hãy thề đi.” Ê-sau bèn thề và bán quyền trưởng tử của chàng cho Gia-cốp. 34 Bấy giờ Gia-cốp mới cho Ê-sau ăn bánh và cháo đậu đỏ. Ê-sau ăn và uống, rồi đứng dậy và đi. Như vậy Ê-sau đã khinh thường quyền trưởng tử của chàng.

Ma-thi-ơ 24

Chúa Báo Trước Ðền Thờ Bị Phá Hủy

(Mác 13:1-2; Lu 21:5-6)

24 Khi Ðức Chúa Jesus rời đền thờ ra đi, các môn đồ Ngài đến gần và chỉ cho Ngài những công trình kiến trúc của đền thờ. Ngài nói với họ, “Các ngươi đều thấy tất cả các công trình kiến trúc này phải không? Quả thật, Ta nói với các ngươi, rồi đây sẽ không còn một tảng đá nào chồng trên tảng đá nào. Tất cả sẽ bị đổ xuống.”

Ðiềm Báo Trước Ngày Tận Thế

(Mác 13:3-13; Lu 21:7-19)

Khi Ngài đang ngồi trên Núi Ô-liu, các môn đồ Ngài đến gặp riêng Ngài và thưa rằng, “Xin Thầy cho chúng con biết khi nào điều ấy sẽ xảy ra? Và có dấu hiệu gì sẽ báo trước ngày Thầy đến và kỳ tận thế chăng?”

Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với họ, “Hãy coi chừng, để không ai dẫn các ngươi đi lạc. Vì sẽ có nhiều người mạo danh Ta, đến, và nói rằng, ‘Ta là Ðấng Christ!’ và họ sẽ dẫn nhiều người đi lạc. Các ngươi sẽ nghe nói về chiến tranh và tin đồn về chiến tranh. Hãy coi chừng, đừng bối rối, vì những điều ấy phải xảy đến, nhưng chưa là cuối cùng đâu. Vì dân này sẽ nổi lên chống lại dân khác, nước nọ nghịch với nước kia, nhiều chỗ sẽ có nạn đói, ôn dịch,[a] và động đất. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ là những cơn quặn thắt bắt đầu của cơn đau chuyển bụng sinh.

Bấy giờ người ta sẽ bắt nộp các ngươi để chịu khổ nạn và giết chết. Các ngươi sẽ bị các dân ghen ghét vì danh Ta. 10 Khi ấy nhiều người sẽ bỏ đạo, phản bội nhau, và ghét nhau. 11 Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và dẫn dắt nhiều người đi lạc, 12 và vì tội ác gia tăng, lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội dần. 13 Nhưng ai bền chí đến cuối cùng sẽ được cứu. 14 Tin Mừng này của vương quốc Ðức Chúa Trời[b] sẽ được giảng ra khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc, bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.”

Thời Kỳ Hoạn Nạn

(Mác 13:14-23; Lu 21:20-24)

15 “Vậy khi các ngươi thấy những điều gớm ghiếc gây cho hoang tàn xảy ra trong nơi thánh, như Tiên Tri Ða-ni-ên đã nói trước,Ða 9:27; 11:31; 12:11 – ai đọc hãy cố hiểu– 16 bấy giờ ai đang ở Giu-đê, hãy trốn lên núi; 17 ai đang ở trên sân thượng, đừng xuống lấy vật gì trong nhà; 18 ai đang ở ngoài đồng, đừng trở về nhà lấy áo choàng. 19 Trong những ngày đó, tội nghiệp thay cho những phụ nữ mang thai và những người mẹ có con thơ còn bú! 20 Hãy cầu nguyện để cuộc chạy trốn đó không nhằm vào mùa đông hay ngày Sa-bát. 21 Vì lúc đó sẽ có cơn hoạn nạn lớn đến nỗi từ khi trời đất được dựng nên cho đến bấy giờ chưa hề có như vậy, và sau đó cũng không có. 22 Và nếu những ngày ấy không giảm bớt, không ai có thể thoát khỏi; nhưng vì những người được chọn, những ngày ấy sẽ được giảm bớt.

23 Bấy giờ nếu ai nói với các ngươi, ‘Này, Ðấng Christ ở đây,’ hoặc ‘Ngài ở đó,’ thì đừng tin. 24 Vì các Ðấng Christ giả[c] và các tiên tri giả sẽ nổi lên, làm những dấu kỳ phép lạ lớn để, nếu có thể được, lừa gạt ngay cả những người được chọn đi sai lạc. 25 Hãy coi chừng, Ta đã nói trước với các ngươi. 26 Vậy nếu người ta bảo các ngươi, ‘Này! Ngài ở trong đồng hoang,’ đừng đến đó. Nếu họ bảo, ‘Này, Ngài ở trong mật thất,’ đừng tin. 27 Vì như sét chớp ở phương đông và nhoáng ở phương tây thể nào, sự hiện đến của Con Người cũng thể ấy. 28 Xác chết ở đâu, kên kên bâu lại đó.”

Chúa Quang Lâm

(Mác 13:24-27; Lu 21:25-28)

29 “Ngay sau những ngày hoạn nạn ấy, mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng sẽ không tỏa sáng, các ngôi sao sẽ từ trời sa xuống, và các quyền lực trên không trung sẽ bị rúng động. 30 Bấy giờ dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời, và mọi chi tộc trên đất sẽ than khóc. Họ sẽ thấy Con Người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà đến. 31 Con Người sẽ sai các thiên sứ mình dùng tiếng kèn lớn tập họp những người được chọn khắp bốn phương trời, từ chân trời này đến chân trời kia.”

Bài Học về Cây Vả

(Mác 13:28-31; Lu 21:29-33)

32 “Các ngươi hãy học bài học về cây vả. Khi cành nó vừa đâm chồi nẩy lộc, các ngươi biết mùa hè sắp đến. 33 Cũng vậy, khi các ngươi thấy những điều ấy, khá biết rằng Con Người[d] sắp đến, tới cổng rồi. 34 Quả thật, Ta nói với các ngươi, thế hệ[e] này sẽ không qua đi trước khi những điều ấy xảy ra. 35 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Ta nói sẽ không qua đi.”

Không Ai Biết Trước Ngày Giờ Chúa Trở Lại

(Mác 13: 32-37; Lu 17:26-30, 34-36)

36 “Nhưng về ngày nào và giờ nào thì không ai biết. Ngay cả các thiên sứ trên trời cũng không biết,[f] nhưng chỉ Cha biết mà thôi. 37 Vì như trong thời Nô-ê thể nào, khi Con Người đến cũng thể ấy. 38 Vì giống như trong thời đó, trước khi nước lụt, người ta ăn, uống, cưới, gả, cho đến ngày Nô-ê vào tàu. 39 Họ chẳng quan tâm gì cho đến khi nước lụt đến và cuốn đi hết thảy. Khi Con Người đến cũng vậy. 40 Bấy giờ sẽ có hai người nam ở ngoài đồng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. 41 Hai người nữ xay cối, một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

42 Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến. 43 Nhưng hãy hiểu điều này, nếu chủ nhà biết canh nào kẻ trộm sẽ đến, chủ nhà ắt sẽ thức canh và không để cho kẻ trộm khoét vách vào nhà. 44 Vậy các ngươi phải sẵn sàng, vì Con Người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ.”

Ðầy Tớ Trung Tín và Ðầy Tớ Bất Trung

(Lu 12:41-48)

45 “Vậy ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt làm quản gia nhà mình, để cấp phát lương thực cho các gia nhân đúng kỳ? 46 Phước cho đầy tớ ấy khi chủ về và thấy người ấy làm như vậy. 47 Quả thật, Ta nói với các ngươi, chủ sẽ đặt người ấy quản trị toàn thể tài sản mình. 48 Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu và nghĩ thầm trong lòng, ‘Chủ ta sẽ về trễ,’ 49 nên đánh đập các bạn cùng làm đầy tớ với mình, và ăn nhậu với phường say sưa. 50 Chủ của đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết; 51 chủ sẽ phân thây nó, rồi nhốt nó chung chỗ với bọn đạo đức giả, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.”

Ê-xơ-tê 1

Vua A-ha-suê-ru Ðãi Tiệc

Việc này đã xảy ra trong thời của A-ha-suê-ru;[a] A-ha-suê-ru này là người cai trị một trăm hai mươi bảy tỉnh, từ Ấn-độ đến Ê-thi-ô-pi.[b] Thuở ấy Vua A-ha-suê-ru đã ngồi vững trên ngai của ông tại kinh thành Su-sa. Năm thứ ba của triều đại ông, ông mở một đại tiệc thết đãi tất cả quần thần và bầy tôi của ông. Các tướng lãnh[c] chỉ huy quân đội Ba-tư và Mê-đi, các nhà quyền quý, và các tỉnh trưởng ở các tỉnh đều về hiện diện đông đủ. Nhân cơ hội ấy ông biểu dương sự giàu sang phú quý của vương quốc ông và sự huy hoàng uy nghi rực rỡ của ông nhiều ngày – một trăm tám mươi ngày cả thảy.

Khi những ngày ấy qua rồi, vua lại bày một tiệc khác bảy ngày nữa, trong vườn ngự uyển của hoàng cung, để thết đãi mọi người ở kinh thành Su-sa, cả lớn lẫn nhỏ. Trong vườn ngự uyển người ta treo những bức màn bằng vải trắng và vải xanh dương. Người ta dùng các dây vải màu tím để máng các màn ấy vào các vòng bằng bạc và cột chúng vào những trụ đá cẩm thạch. Trong vườn ngự uyển có các băng ghế bằng vàng và bằng bạc, đặt trên những nền đá quý được lát rất mỹ thuật, nào là đá màu đỏ trắng, đá cẩm thạch, đá lam lục, và đá có vân đen. Người ta dùng các ly uống rượu bằng vàng có kiểu rất độc đáo và mỹ thuật để đãi khách. Các thực khách đều được tiếp rượu dồi dào, xứng hợp với cung cách đãi khách giàu sang phú quý của bậc đế vương. Người ta mang rượu ra hàng hũ để đãi khách. Ai muốn uống bao nhiêu tùy ý, vì vua đã truyền cho các quan chức phục vụ ở hoàng cung phải chiều ý mọi người. Ngoài ra Hoàng Hậu Vả-thi cũng mở một tiệc riêng để thết đãi các mệnh phụ phu nhân trong cung điện của Vua A-ha-suê-ru.

Hoàng Hậu Vả-thi Bị Truất Phế

10 Vào ngày thứ bảy khi rượu đã làm cho vua hứng chí, vua truyền lệnh cho Mê-hu-man, Bi-tha, Hạc-bô-na, Bích-tha, A-ba-tha, Xê-tha, và Ca-cách –bảy quan thái giám đang hầu vua– 11 đưa Hoàng Hậu Vả-thi, đội mão triều, đến chầu vua, để dân chúng và triều thần được cơ hội chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà, vì bà là một tuyệt sắc giai nhân. 12 Nhưng Hoàng Hậu Vả-thi từ chối vâng theo lệnh vua do các quan thái giám mang đến. Vì thế vua vô cùng tức giận, và lòng vua nổi giận bừng bừng.

13 Bấy giờ vua tham khảo ý kiến của các quân sư, những người am hiểu tình hình chính trị, vì đó là cách vua thường làm đối với những vị am tường luật pháp và việc xử đoán, mỗi khi hữu sự. 14 Những người hầu cận bên vua gồm Cạt-sê-na, Sê-tha, Át-ma-tha, Tạt-si, Mê-rê, Mạc-sê-na, và Mê-mu-can, tức bảy quan thượng thư của Ba-tư và Mê-đi, những người thường đứng chầu trước mặt vua và nắm giữ[d] những chức vụ hàng đầu trong đế quốc. 15 “Theo luật thì chúng ta phải làm sao với Hoàng Hậu Vả-thi, vì bà đã không tuân lệnh Vua A-ha-suê-ru do các quan thái giám mang đến?”

16 Bấy giờ Mê-nu-can tâu với vua trước mặt các quan thượng thư, “Hoàng Hậu Vả-thi không những đã có lỗi với hoàng thượng, nhưng cũng có lỗi với tất cả các quần thần và tất cả các dân sống trong tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru. 17 Vì khi hành động này của hoàng hậu bị đồn ra đến tai toàn thể phụ nữ, họ sẽ nhìn chồng của họ với cặp mắt khinh thường. Họ sẽ bảo, ‘Vua A-ha-suê-ru đã truyền đem Hoàng Hậu Vả-thi đến chầu vua, nhưng bà ấy không đi thì có sao đâu?’ 18 Hôm nay thế nào các mệnh phụ phu nhân của Ba-tư và Mê-đi cũng sẽ về nói cho tất cả các quần thần của hoàng thượng rằng họ đã nghe về thái độ của hoàng hậu. Như thế rồi đây trong vương quốc sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề xảy ra do sự khinh thường của vợ và phản ứng tức giận của chồng. 19 Vậy nếu đẹp ý hoàng thượng, xin hoàng thượng ban một sắc chỉ và cho ghi vào trong sách luật của người Ba-tư và Mê-đi để không thể thay đổi được rằng Vả-thi sẽ không bao giờ được diện kiến Vua A-ha-suê-ru nữa, và kính xin hoàng thượng ban chức vụ đó cho người nào xứng đáng hơn bà. 20 Rồi đây khi sắc chỉ của hoàng thượng được công bố trong toàn thể vương quốc bao la rộng lớn này, bấy giờ tất cả phụ nữ sẽ tôn trọng chồng họ, bất kể giàu sang hay nghèo khó.”

21 Lời tâu đó đẹp lòng vua và các triều thần. Vua bèn làm y như lời của Mê-nu-can đã đề nghị. 22 Vua ban sắc chỉ gởi đến tất cả các tỉnh của ông. Tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy, và truyền rằng trong mỗi gia đình người đàn ông là chủ gia đình.

Công Vụ Các Sứ đồ 24

Phao-lô Biện Hộ Trước Chính Quyền La-mã tại Sê-sa-rê

24 Năm ngày sau Thượng Tế A-na-nia với vài trưởng lão và một luật sư tên Tẹt-tu-lu xuống đệ đơn kiện Phao-lô với quan tổng trấn. Sau khi Phao-lô được gọi đến, Tẹt-tu-lu bắt đầu tố cáo ông rằng:

“Tâu quan Phê-lít:

Nhờ ơn quan, chúng tôi hưởng được thái bình lâu dài, và nhờ sự nhìn xa thấy rộng của quan, nhiều cải tiến đã được thực hiện cho đất nước này. Lúc nào và nơi nào chúng tôi cũng hết lòng tri ơn quan. Ðể khỏi phải làm phiền quan thêm nữa, xin quan nhẫn nại lắng nghe chúng tôi trình bày vắn tắt như sau:

Chúng tôi đã tìm thấy tên này là đồ ôn dịch, một kẻ chuyên gây rối cho người Do-thái khắp nơi trên thế giới, và là tên cầm đầu của phái Na-xa-rét. Vì hắn toan làm ô uế đền thờ nên chúng tôi đã bắt hắn. Chúng tôi muốn xử hắn theo luật của chúng tôi, nhưng Quan Chỉ Huy Cơ-lau-đi-u Ly-si-a đã đến dùng vũ lực cướp hắn khỏi tay chúng tôi, và truyền cho những ai muốn tố cáo hắn hãy đến hầu quan.[a] Khi quan đích thân tra xét hắn, chắc chắn quan sẽ rõ mọi điều chúng tôi tố cáo hắn.”

Người Do-thái cũng hùa theo và bảo rằng những lời cáo buộc ấy quả đúng như vậy.

10 Khi Phao-lô được quan tổng trấn ra dấu cho phép nói, ông nói:

“Tôi biết rằng quan xét xử trong đất nước này đã nhiều năm, nên tôi rất hân hạnh được nói lên những lời để binh vực tôi. 11 Quan có thể cho điều tra để biết rõ rằng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng cách đây chưa được mười hai ngày. 12 Trong đền thờ, trong các hội đường, hoặc trong khắp thành phố, người ta không thấy tôi tranh cãi với ai điều gì và cũng không sách động quần chúng nổi loạn. 13 Họ cũng không thể chứng minh cho quan những điều họ tố cáo tôi hôm nay. 14 Nhưng tôi xin xác nhận với quan về ‘Ðạo’[b] mà họ gọi là ‘phái’ đó:

Tôi phụng sự Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi. Tôi tin tưởng mọi điều đã chép trong Luật Pháp và Các Tiên Tri. 15 Tôi có lòng hy vọng nơi Ðức Chúa Trời, một niềm hy vọng mà chính họ cũng đồng ý, đó là sẽ có sự sống lại cho người ngay lành và kẻ gian ác. 16 Vì thế tôi luôn luôn cố giữ một lương tâm trong sạch trước mặt Ðức Chúa Trời và mọi người.

17 Sau nhiều năm xa cách, nay tôi về nước để mang tiền cứu trợ về giúp đất nước tôi và để dâng của tế lễ. 18 Trong khi tôi làm như thế, họ bắt[c] tôi trong đền thờ, lúc tôi sắp hoàn tất nghi lễ tẩy uế, không tụ tập đám đông, và cũng không gây rối chi cả. 19 Nhưng một số người Do-thái ở A-si-a, những người đáng lý phải hầu quan hôm nay để tố cáo tôi, nếu họ tìm thấy tôi có điều gì đáng tố cáo; 20 còn không, xin những người có mặt tại đây nói ra tội trạng của tôi lúc tôi đứng trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo, 21 nếu không phải là câu này mà tôi đã tuyên bố khi đứng trước mặt họ, ‘Ấy là vì sự sống lại của người chết mà tôi bị xét xử trước mặt anh em hôm nay.’”

Phao-lô Bị Giam Lỏng tại Sê-sa-rê

22 Nhưng Phê-lít, người biết khá rõ về Ðạo[d] mà Phao-lô đề cập, đã cho hoãn lại cuộc xét xử và nói, “Khi nào Quan Chỉ Huy Ly-si-a xuống đây, ta sẽ phán quyết vụ án này cho các ngươi.” 23 Sau đó ông ra lịnh cho viên đại đội trưởng chịu trách nhiệm việc canh giữ Phao-lô phải cho ông được tự do thong thả, và đừng ngăn trở nếu có thân nhân bạn hữu nào đến thăm nuôi.

24 Vài ngày sau Phê-lít và vợ ông là Ðơ-ru-si-la, một phụ nữ Do-thái, gọi Phao-lô đến để nghe ông giảng về đức tin nơi Ðức Chúa Jesus Christ. 25 Nhưng khi nghe Phao-lô nói đến sự công chính, sự tiết độ, và sự phán xét sẽ đến, Phê-lít sợ và nói, “Bây giờ ông có thể lui ra, khi nào có thì giờ, tôi sẽ mời ông trở lại.” 26 Ðồng thời Phê-lít cũng mong Phao-lô đút lót tiền bạc cho mình, nên thường mời ông đến đàm đạo.

27 Sau hai năm, Pọt-xi-u Phê-tu đến thay thế Phê-lít. Số là vì muốn được lòng người Do-thái, nên Phê-lít cứ giam lỏng Phao-lô trong tù.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang