Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 23

Sa-ra Qua Ðời và Ðược An Táng

23 Sa-ra hưởng thọ một trăm hai mươi bảy tuổi. Ðó là tuổi thọ của Sa-ra. Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át Ạc-ba, tức là Hếp-rôn, trong xứ Ca-na-an. Áp-ra-ham để tang cho bà và thương khóc bà. Ðoạn Áp-ra-ham đứng dậy, rời nơi vợ ông qua đời, đến gặp dân Hít-ti và nói, “Tôi là một khách lạ, một kiều dân, đến tạm trú giữa quý vị. Xin cho tôi một miếng đất để làm nghĩa địa chôn cất người thân của tôi qua đời.”

Người Hít-ti trả lời với Áp-ra-ham, “Thưa ngài, xin nghe chúng tôi nói: ngài là một người quyền quý giữa chúng tôi. Hãy chọn khu đất làm nghĩa địa nào tốt nhất trong xứ chúng tôi để làm nơi chôn cất người chết của ngài. Không ai trong chúng tôi sẽ giữ lại khu đất làm nghĩa địa của mình khi ngài muốn chôn người chết của ngài ở đó.”

Bấy giờ Áp-ra-ham đứng dậy, rồi sấp mình xuống đất trước mặt những người Hít-ti là dân trong xứ. Ông nói với họ, “Nếu quý vị bằng lòng cho tôi được chôn người thân của tôi qua đời, xin vui lòng nói giúp tôi một tiếng với ông Ép-rôn con cụ Xô-ha, để ông ấy nhường lại cho tôi Hang Mạch-pê-la mà ông ấy đang làm chủ. Hang đó nằm ở cuối cánh đồng của ông ấy. Tôi xin trả cho ông ấy đúng thời giá trước mặt quý vị, để tôi có một miếng đất dùng làm nghĩa địa.”

10 Lúc ấy Ép-rôn đang ngồi ở giữa những người Hít-ti. Ép-rôn người Hít-ti đáp lời Áp-ra-ham trước sự chứng kiến của những người Hít-ti, tức tất cả những người lãnh đạo đến ngồi xử đoán tại cổng thành, 11 “Thưa ngài, đừng như vậy. Xin nghe tôi nói: Tôi nhường cho ngài nguyên cánh đồng và cái hang trong cánh đồng ấy. Trước sự chứng kiến của dân tôi, tôi nhường nó cho ngài, để ngài có nơi chôn người chết của ngài.”

12 Bấy giờ Áp-ra-ham sấp mình xuống đất một lần nữa trước mặt dân trong xứ. 13 Ông nói với Ép-rôn trước sự chứng kiến của những người dân trong xứ, “Xin quý vị vui lòng nghe tôi nói: Tôi muốn trả đúng thời giá cho cả cánh đồng. Xin nhận giá mua đó nơi tôi, để tôi có thể chôn người chết của tôi ở đó.”

14 Ép-rôn đáp lời Áp-ra-ham, 15 “Thưa ngài, xin nghe tôi nói: Cánh đồng ấy đáng giá bốn trăm miếng[a] bạc, nhưng giữa tôi với ngài tiền bạc có nghĩa lý gì chăng? Xin ngài cứ chôn người chết của ngài ở đó đi.”

16 Áp-ra-ham đồng ý với giá cả do Ép-rôn đưa ra. Áp-ra-ham cân cho Ép-rôn số bạc mà ông ấy đã ra giá, trước sự chứng kiến của những người Hít-ti; đó là bốn trăm miếng bạc theo cân lượng của các thương gia thời bấy giờ.

17 Như vậy cánh đồng của Ép-rôn ở Mạch-pê-la, nằm về phía đông của Mam-rê, tức toàn cánh đồng, với cái hang đá trong đó, cùng tất cả những cây cối trong cánh đồng, và đất đai thuộc về cánh đồng đó, đều được xác nhận là đã chuyển 18 quyền sở hữu qua Áp-ra-ham, trước sự chứng kiến của những người Hít-ti, tức trước sự chứng kiến của tất cả những người lãnh đạo đến ngồi xử đoán tại cổng thành.

19 Sau đó Áp-ra-ham đem thi hài của Sa-ra vợ ông chôn cất trong hang đá ấy, trong cánh đồng Mạch-pê-la, đối ngang Mam-rê, tức là Hếp-rôn, trong xứ Ca-na-an. 20 Quyền sở hữu của cánh đồng và hang đá ấy đã được xác nhận là đã chuyển từ dân Hít-ti qua Áp-ra-ham để ông dùng làm nghĩa địa.

Ma-thi-ơ 22

Ngụ Ngôn về Tiệc Cưới

(Lu 14:15-24)

22 Ðức Chúa Jesus lại dùng ngụ ngôn và nói với họ rằng, “Vương quốc thiên đàng giống như một vua kia tổ chức tiệc cưới cho con trai mình. Vua sai các đầy tớ mình đi mời các quan khách đã được mời đến dự tiệc, nhưng những người ấy không đến. Vua lại sai các đầy tớ khác và dặn, ‘Các ngươi hãy nói với những người đã được mời rằng: Này, ta đã chuẩn bị tiệc cưới xong, bò và thú béo đã làm thịt rồi, mọi sự đã sẵn sàng, mời đến dự tiệc.’ Nhưng các quan khách ấy chẳng coi việc đó ra gì, và họ bỏ đi. Người thì đi thăm ruộng rẫy, kẻ thì đi buôn bán, còn những người khác lại bắt các đầy tớ của vua mà ngược đãi và giết đi. Vua nổi giận và sai quân đi diệt những kẻ giết người và thiêu hủy thành trì của họ. Ðồng thời vua bảo các đầy tớ, ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng, nhưng những kẻ được mời không xứng đáng. Vậy hãy đi ra các ngã đường, hễ gặp ai, các ngươi hãy mời họ đến dự tiệc.’ 10 Các đầy tớ đi khắp các ngã đường và mời mọi người họ gặp, bất luận người tốt hay xấu, vậy phòng tiệc đầy các thực khách.

11 Nhưng khi vua vào phòng tiệc để quan sát các thực khách, vua thấy một người không mặc y phục dự tiệc cưới. 12 Vua hỏi người ấy, ‘Này bạn, sao bạn đã vào đây mà không chịu mặc y phục dự tiệc cưới?’ Người ấy không đáp được lời nào. 13 Vua truyền cho các đầy tớ mình, ‘Hãy trói tay chân hắn lại và quăng hắn ra nơi tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.’ 14 Vì nhiều người được gọi, nhưng ít người được chọn.”

Chúa Giải Ðáp về Việc Ðóng Thuế

(Mác 12:13-17; Lu 20:20-26)

15 Bấy giờ những người Pha-ri-si đi ra bàn tính với nhau để tìm cách gài bẫy Ngài nói lỡ lời. 16 Họ sai các đệ tử của họ đi với những người của Hê-rốt đến gặp Ngài và hỏi, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chính trực. Thầy cứ theo chân lý mà dạy dỗ đường lối của Ðức Chúa Trời và không thiên vị ai, vì Thầy không nhìn bề ngoài mà đánh giá người nào. 17 Vậy xin cho chúng tôi biết ý kiến, Thầy nghĩ sao? Chúng ta có nên nộp thuế cho Sê-sa không?”

18 Nhưng Ðức Chúa Jesus biết ác ý của họ, Ngài đáp, “Hỡi những kẻ đạo đức giả, tại sao các ngươi muốn thử Ta? 19 Hãy đưa Ta xem một đồng tiền các ngươi dùng để nộp thuế.” Họ đưa cho Ngài một đồng đơ-na-ri.

20 Ngài hỏi họ, “Hình ảnh và danh hiệu này của ai?”

21 Họ trả lời Ngài, “Của Sê-sa.”

Ngài nói với họ, “Vậy hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa, và hãy trả cho Ðức Chúa Trời những gì của Ðức Chúa Trời.”

22 Khi nghe như vậy, họ đều sững sờ, rồi bỏ Ngài mà đi.

Tình Trạng Sau Khi Sống Lại

(Mác 12:18-27; Lu 20:27-40)

23 Cũng trong ngày đó có mấy người Sa-đu-sê, những người nói rằng chẳng có sự sống lại, đến với Ngài và hỏi Ngài 24 rằng, “Thưa Thầy, Môi-se bảo, ‘Nếu một người qua đời mà không con nối dõi thì anh hay em trai phải cưới người vợ góa để lưu truyền dòng giống cho em hoặc anh mình.’Sáng 38:8; Phục 25:5-6 25 Bây giờ ở giữa chúng tôi có bảy anh em trai. Người thứ nhất lập gia đình, rồi chết, không con nối dõi, để vợ góa lại cho em kế. 26 Người thứ hai cũng vậy, rồi người thứ ba, cho đến người thứ bảy. 27 Cuối cùng người đàn bà ấy cũng chết. 28 Vậy khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em đó, vì tất cả đều đã lấy bà?”

29 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với họ, “Các ngươi đã sai lầm vì không biết Kinh Thánh và quyền năng của Ðức Chúa Trời, 30 vì khi sống lại, người ta sẽ không cưới không gả, nhưng sẽ như các thiên sứ trên trời. 31 Còn về sự sống lại của người chết, các ngươi chưa đọc những gì Ðức Chúa Trời đã phán với các ngươi sao? 32 ‘Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của I-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp.’Xuất 3:6, 16 Ngài không phải là Ðức Chúa Trời của kẻ chết nhưng là của người sống.” 33 Khi đám đông nghe vậy, họ ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài.

Ðiều Răn Lớn Nhất

(Mác 12:28-34; Lu 10:25-28)

34 Khi những người Pha-ri-si nghe rằng Ngài đã làm cho những người Sa-đu-sê im miệng, họ họp lại với nhau. 35 Họ cử một người trong họ, một luật sư, hỏi Ngài một câu để thử Ngài rằng, 36 “Thưa Thầy, điều răn nào trong Luật Pháp là lớn hơn hết?”

37 Ngài nói với ông, “‘Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, và hết trí tuệ yêu kính Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.’[a] 38 Ðây là điều răn lớn nhất và trước hết. 39 Còn điều răn thứ hai cũng vậy, ‘Ngươi hãy yêu người lân cận như mình.’ Lê 19:18 40 Toàn bộ Luật Pháp và Các Tiên Tri đặt nền tảng[b] trên hai điều răn ấy.”

Gốc Tích của Ðấng Christ

(Mác 12:35-37; Lu 41:41-46)

41 Khi những người Pha-ri-si đang họp lại với nhau, Ðức Chúa Jesus hỏi họ, 42 “Các ngươi nghĩ thế nào về Ðấng Christ?[c] Ngài là Con của ai?”

Họ trả lời Ngài, “Con của Ða-vít.”

43 Ngài nói với họ, “Thế tại sao khi được Ðức Thánh Linh cảm thúc, Ða-vít đã gọi Ngài là ‘Chúa,’ mà rằng:

44 ‘Chúa phán với Chúa của tôi,

“Con hãy ngồi bên phải Ta cho đến khi Ta đặt những kẻ thù của Con làm bệ chân Con”?’[d]

45 Nếu Ða-vít đã gọi Ngài là ‘Chúa,’ thì làm sao Ngài là con của ông ấy được?”

46 Không ai có thể trả lời Ngài được một tiếng. Từ đó trở đi không ai dám hỏi Ngài câu nào nữa.

Nê-hê-mi 12

Danh Sách Các Tư Tế và Những Người Lê-vi

12 Sau đây là các tư tế và những người Lê-vi đã hồi hương với Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và với Giê-sua:

Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, Ê-xơ-ra, A-ma-ri-a, Manh-lúc, Hát-túc, Sê-ca-ni-a, Rê-hum, Mê-rê-mốt, I-đô, Ghin-nê-thôi, A-bi-gia, Mi-gia-min, Ma-a-đi-a, Bin-ga, Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia, Sanh-lu, A-mốc, Hinh-ki-a, Giê-đa-gia. Ðó là những người lãnh đạo các tư tế và những người cộng sự của họ trong thời của Giê-sua.

Về những người Lê-vi có Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bi-a, Giu-đa, và Mát-ta-ni-a. Mát-ta-ni-a là người lãnh đạo những người cộng tác với ông trong việc ca ngợi thờ phượng. Bác-bu-ki-a và Un-nô cùng những người bà con dòng họ của họ đứng đối diện nhau trong khi hành lễ.

10 Giê-sua sinh Giô-gia-kim. Giô-gia-kim sinh Ê-li-a-síp. Ê-li-a-síp sinh Giô-gia-đa. 11 Giô-gia-đa sinh Giô-na-than. Giô-na-than sinh Gia-đua.

12 Trong thời của Giô-gia-kim, các tư tế sau đây là trưởng tộc trong gia tộc của họ: gia tộc Sê-ra-gia, Mê-ra-gia; gia tộc Giê-rê-ni-a, Ha-na-ni-a; 13 gia tộc Ê-xơ-ra, Mê-su-lam; gia tộc A-ma-ri-a, Giê-hô-ha-nan; 14 gia tộc Manh-lu-ki, Giô-na-than; gia tộc Sê-ba-ni-a, Giô-sép; 15 gia tộc Ha-rim, Át-na; gia tộc Mê-ra-giốt, Hên-cai; 16 gia tộc I-đô, Xa-cha-ri; gia tộc Ghin-nê-thôn, Mê-su-lam; 17 gia tộc A-bi-gia, Xích-ri; gia tộc Mi-ni-a-min và gia tộc Mô-a-đi-a, Pin-tai; 18 gia tộc Bin-ga, Sam-mua; gia tộc Sê-ma-gia, Giê-hô-na-than; 19 gia tộc Giô-gia-ríp, Mát-tê-nai; gia tộc Giê-đa-gia, U-xi; 20 gia tộc Sanh-lai, Canh-lai; gia tộc A-mốc, Ê-be; 21 gia tộc Hinh-ki-a, Ha-sa-bi-a; gia tộc Giê-đa-gia, Nê-tha-nên.

22 Về những người Lê-vi, trong thời của Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua, người ta ghi vào sổ bộ những người trưởng tộc của gia tộc họ. Các tư tế cũng được ghi tên vào sổ bộ cho đến triều đại của Ða-ri-út người Ba-tư.

23 Về con cháu của Lê-vi, các trưởng tộc của gia tộc của họ được ghi tên vào Sách Sử Ký cho đến thời của Giô-ha-nan con của Ê-li-a-síp. 24 Những người lãnh đạo của người Lê-vi gồm có: Ha-sa-bi-a, Sê-rê-bi-a, và Giê-sua con của Cát-mi-ên, cùng với những người bà con dòng họ của họ đứng đối diện với họ để ca ngợi và dâng lời tạ ơn theo như lịnh của Ða-vít, người của Ðức Chúa Trời. Họ chia ra thành bè đứng ca hát đối đáp với nhau.

25 Mát-ta-ni-a, Bạc-bu-ki-a, Ô-ba-đi-a, Mê-su-lam, Tanh-môn, và Ạc-cúp là những người giữ cửa; họ đứng gác ở các nhà kho gần các cổng. 26 Những người ấy phục vụ trong thời của Giô-gia-kim con của Giê-sua, con của Giô-xa-đác, và trong thời của Nê-hê-mi làm tổng trấn và Tư Tế Ê-xơ-ra làm giáo sư kinh luật.

Lễ Khánh Thành Tường Thành Giê-ru-sa-lem

27 Khi ấy có lễ khánh thành bức tường bao quanh Thành Giê-ru-sa-lem. Người ta tìm những người Lê-vi khắp nơi họ ở, đưa họ về Giê-ru-sa-lem để tổ chức lễ khánh thành, hầu mừng tường thành đã được xây lại xong. Người ta tổ chức những chương trình tạ ơn có ca hát, phối hợp với các khánh chiêng, các hạc cầm, và các đàn lia. 28 Con cháu của những người ca hát từ các miền phụ cận Giê-ru-sa-lem và từ các làng của người Nê-tô-pha tập họp về. 29 Họ cũng từ Bết Ghinh-ganh, từ những cánh đồng ở Ghê-ba và A-ma-vét kéo đến, vì những người ca hát đã thành lập các làng của họ quanh Giê-ru-sa-lem. 30 Khi ấy các tư tế và những người Lê-vi đã thanh tẩy chính họ, sau đó họ thanh tẩy dân chúng, các cổng thành, và tường thành.

31 Tôi đưa những người lãnh đạo của Giu-đa lên tường thành và tổ chức hai đại ca đoàn để rước lễ tạ ơn. Một đại ca đoàn đi trên tường thành tiến về hướng nam, tức về phía Cổng Phân. 32 Ði theo đại ca đoàn đó có Hô-sai-a và phân nửa những người lãnh đạo Giu-đa, 33 cùng với A-xa-ri-a, Ê-xơ-ra, Mê-su-lam, 34 Giu-đa, Bên-gia-min, Sê-ma-gia, và Giê-rê-mi. 35 Tháp tùng có ban kèn của các tư tế, cũng có Xa-cha-ri-a con của Giô-na-than, con của Sê-ma-gia, con của Mát-ta-ni-a, con của Mi-cai-a, con của Xác-cua, con của A-sáp, 36 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, và Ha-na-ni sử dụng các nhạc khí của Ða-vít, người của Ðức Chúa Trời. Họ có Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật dẫn đầu. 37 Khi đến Cổng Suối Nước, họ tiến thẳng về phía trước, đi lên các bậc thềm của Thành Ða-vít, và tiến lên đầu tường. Họ tiếp tục đi trên tường thành phía sau cung Vua Ða-vít và tiến về Cổng Nước ở hướng đông.

38 Còn đại ca đoàn kia thì đi ngược hướng với họ. Tôi dẫn phân nửa những người còn lại đi theo sau họ trên tường thành, tiến qua Tháp Các Lò, đến chỗ Tường Rộng, 39 qua Cổng Ép-ra-im, qua Cổng Cũ, qua Cổng Cá, qua Tháp Ha-na-nên, qua Tháp Một Trăm, đến Cổng Chiên, và họ dừng lại ở Cổng Lính Canh.

40 Kế đến hai đoàn trỗi tiếng cảm tạ và cùng tiến vào khu Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Tôi và phân nửa những người lãnh đạo đi với tôi cũng làm như vậy; 41 chúng tôi đi với các vị tư tế: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-a, Mi-ni-a-min, Mi-cai-a, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri-a, và Ha-na-ni-a, những người sử dụng kèn, 42 và quý ông Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. Trong khi đó Giê-ra-hi-a hướng dẫn ca đoàn lớn tiếng ca hát vang lừng. 43 Ngày hôm đó họ dâng nhiều của lễ và rất đỗi vui mừng vì Ðức Chúa Trời đã ban cho họ một niềm vui lớn. Cả phụ nữ lẫn trẻ em đều cũng vui mừng hoan hỉ. Niềm vui của Giê-ru-sa-lem đã vang rộng khắp nơi.

Những Người Phục VụChúaÐược Phụ Cấp

44 Ngày hôm đó một số người được lập làm những người quản lý các phòng dùng làm nhà kho để chứa các của dâng, các hoa lợi đầu mùa, và các của dâng một phần mười. Họ thâu nhận vào các phòng đó những phần được luật pháp quy định dành cho các tư tế và những người Lê-vi, tức những sản phẩm của các ruộng rẫy trực thuộc các thành, vì mọi người ở Giu-đa đều vui thỏa về sự phục vụ của các tư tế và những người Lê-vi. 45 Họ đã thi hành chức vụ Ðức Chúa Trời giao phó cho họ, và họ đã thi hành nghi thức thanh tẩy một cách tốt đẹp. Những người ca hát và những người giữ cửa cũng thi hành chức vụ rất hoàn hảo theo như lịnh của Ða-vít và của Sa-lô-môn con vua ấy. 46 Số là trong thời của Ða-vít và A-sáp rất lâu về trước, có người đã được lập làm người chỉ huy những người ca hát, và có những bài thánh ca đã được dùng để ca ngợi và tạ ơn Ðức Chúa Trời. 47 Trong thời của Xê-ru-ba-bên và trong thời của Nê-hê-mi, toàn dân I-sơ-ra-ên đã dành riêng những phần phụ cấp để chu cấp hằng ngày cho những người ca hát và những người giữ cửa. Họ biệt riêng phần của những người Lê-vi ra. Những người Lê-vi lại trích ra từ phần của họ để chia sẻ cho các con cháu của A-rôn.

Công Vụ Các Sứ đồ 22

Phao-lô Làm Chứng tại Giê-ru-sa-lem

Lời Mở Ðầu

22 “Thưa các anh và các cha, xin lắng nghe lời biện hộ của tôi trước quý vị giờ đây.”

Khi họ nghe ông nói với họ bằng tiếng Hê-bơ-rơ, họ lại càng yên lặng hơn, và ông nói tiếp:

“Tôi là người Do-thái, sinh tại Tạt-sơ, thuộc vùng Si-li-si-a, nhưng lớn lên trong thành này, học nơi chân Giáo Sư Ga-ma-li-ên, được giáo dục nghiêm khắc theo Luật Pháp của tổ phụ chúng ta. Tôi rất nhiệt thành với Ðức Chúa Trời, giống như tất cả quý vị hôm nay. Tôi đã từng bách hại Ðạo[a] này cho đến chết, bắt trói và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Ngay cả vị thượng tế và mọi người trong Hội Ðồng Trưởng Lão có thể làm chứng cho tôi điều đó. Chính quý vị ấy đã cấp những thư giới thiệu tôi đến với anh em ở Thành Ða-mách, để tôi đến đó bắt trói những ai theo Ðạo này, đem về Giê-ru-sa-lem trừng trị.

Thuật Lại Kinh Nghiệm Gặp Chúa

Trong khi tôi đi đường và gần đến Ða-mách, khoảng giữa trưa, thình lình một luồng ánh sáng cực sáng từ trời chiếu xuống quanh tôi. Tôi té xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi rằng, ‘Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta?’

Tôi thưa, ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’

Ngài phán với tôi, ‘Ta là Jesus người Na-xa-rét mà ngươi đang bắt bớ.’

Lúc ấy những người đi với tôi chắc hẳn đã thấy ánh sáng nhưng không hiểu tiếng nói của Ðấng phán với tôi.

10 Tôi hỏi, ‘Lạy Chúa, con phải làm gì bây giờ?’

Chúa phán với tôi, ‘Hãy đứng dậy, đi vào Thành Ða-mách, tại đó có người sẽ nói với ngươi mọi việc đã định cho ngươi phải làm.’

11 Vì tôi không thấy đường vì bị ánh sáng chói lòa ấy làm mù mắt, các bạn đồng hành đã nắm tay tôi và dắt tôi vào Thành Ða-mách.

12 Tại đó có một người tên là A-na-nia, một người rất sùng đạo theo tiêu chuẩn của Luật Pháp, được mọi người Do-thái ở đó khen ngợi, 13 đến tìm tôi, đứng bên tôi, và nói, ‘Anh Sau-lơ, hãy sáng mắt lại.’ Ngay lúc đó tôi ngước mắt lên và thấy ông. 14 Ông nói, ‘Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã chọn anh, để anh biết thánh ý của Ngài, thấy Ðấng Công Chính, và nghe tiếng nói từ miệng Ngài. 15 Vì từ nay, anh sẽ là nhân chứng của Ngài cho mọi người về những gì anh đã thấy và nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chờ gì nữa? Hãy đứng dậy và chịu phép báp-têm, để tội lỗi anh được rửa sạch, và kêu cầu danh Ngài.’

Thuật Lại Sự Kêu Gọi Ði Giảng Ðạo cho Các Dân Ngoại

17 Sau đó tôi trở về Giê-ru-sa-lem. Khi tôi cầu nguyện trong đền thờ, tôi bị xuất thần, 18 và tôi thấy Chúa nói với tôi, ‘Hãy mau lên, hãy lập tức rời khỏi Giê-ru-sa-lem, vì họ không chấp nhận lời chứng của con về Ta.’

19 Tôi thưa lại, ‘Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đã từng đi từ hội đường này đến hội đường khác bắt bỏ tù và đánh đập bất cứ ai tin Ngài. 20 Khi máu của Ê-tiên nhân chứng của Ngài bị đổ ra, con đã đứng xem, tán thành, và giữ áo choàng cho những người giết ông ấy.’

21 Ngài phán với tôi, ‘Hãy đi, vì Ta muốn sai con đến với các dân ngoại ở những nơi xa xăm.’

22 Ðám đông lắng nghe ông nói nhưng khi đến câu ấy, họ gào to, “Hãy trừ khỏi mặt đất hạng người như thế, vì nó không đáng sống.”

Phao-lô Sử Dụng Quyền Công Dân

23 Trong khi họ tiếp tục la hét, họ cởi áo choàng ra phất lên, và hốt bụi đất tung lên trời. 24 Quan tư lịnh truyền lịnh đem ông vào đồn và ra lịnh dùng roi có móc đánh ông để tra khảo xem tại sao dân chúng gào thét chống lại ông như thế. 25 Khi họ lấy dây căng ông ra để đánh, Phao-lô hỏi viên đại đội trưởng đứng gần, “Ông có quyền đánh một công dân La-mã khi người ấy chưa bị kết án sao?”

26 Nghe vậy viên đại đội trưởng đến nói với quan tư lịnh, “Ông tính làm gì thế? Vì người này là một công dân La-mã.”

27 Quan tư lịnh đến và hỏi ông, “Hãy nói cho tôi biết, ông có phải là công dân La-mã không?”

Phao-lô đáp, “Phải.”

28 Quan tư lịnh nói, “Tôi đã tốn một số tiền lớn mới mua được quốc tịch La-mã.”

Phao-lô đáp, “Còn tôi, khi sinh ra tôi đã là công dân La-mã rồi.”

29 Ngay lập tức những kẻ tính tra khảo ông rút lui; còn quan tư lịnh thì bắt đầu lo sợ, vì ông ta vừa biết được Phao-lô là công dân La-mã mà đã bắt trói ông ấy bằng xiềng.

Phao-lô Ở Trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái

30 Hôm sau quan tư lịnh muốn biết rõ tại sao người Do-thái tố cáo ông, nên đem ông ra khỏi nhà giam và truyền lệnh triệu tập các trưởng tế và toàn thể Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái lại, rồi đưa Phao-lô xuống và để ông đứng trước mặt họ.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang