M’Cheyne Bible Reading Plan
I-sác Ðược Sinh Ra
21 Chúa thăm viếng Sa-ra như lời Ngài đã phán, và Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với Sa-ra. 2 Sa-ra mang thai và sinh cho Áp-ra-ham một con trai trong khi ông đã già nua, theo như thời điểm Ðức Chúa Trời đã phán với ông. 3 Áp-ra-ham đặt tên cho con trai ông, do Sa-ra sinh cho ông, là I-sác. 4 Áp-ra-ham làm phép cắt bì cho I-sác con trai ông khi đứa trẻ được tám ngày, y như lời Ðức Chúa Trời đã truyền cho ông. 5 Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi I-sác sinh ra. 6 Bấy giờ Sa-ra nói, “Ðức Chúa Trời đã làm cho tôi phải bật cười. Tất cả những ai nghe đến chuyện nầy ắt sẽ cười tôi.” 7 Bà lại nói, “Có bao giờ người ta nói với Áp-ra-ham rằng, ‘Sa-ra sẽ cho con bú’ chăng? Thế mà tôi đã sinh cho ông ấy một con trai khi tuổi ông ấy đã già.”
Ha-ga và Ích-ma-ên Ra Ði
8 Ðứa trẻ lớn lên và dứt sữa. Áp-ra-ham làm một bữa tiệc lớn để khoản đãi trong ngày I-sác thôi bú. 9 Sa-ra thấy con trai của Ha-ga người Ai-cập, đứa con do nàng sinh cho Áp-ra-ham, đang đùa giỡn. 10 Bà nói với Áp-ra-ham, “Mình hãy đuổi người đàn bà nô lệ nầy và đứa con của nó đi. Vì đứa con của người đàn bà nô lệ nầy sẽ không được hưởng gia tài chung với I-sác con trai của em.” 11 Việc ấy đã làm cho Áp-ra-ham rất khổ tâm, vì ông rất thương con trai ông.
12 Nhưng Ðức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham, “Ngươi đừng buồn khổ vì đứa trẻ và vì người nữ nô lệ của ngươi nữa. Tất cả những gì Sa-ra bảo ngươi, hãy làm theo lời nàng, vì qua I-sác ngươi sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 13 Còn về đứa con của người nữ nô lệ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân lớn, vì nó cũng là dòng dõi ngươi.”
14 Vậy sáng hôm sau Áp-ra-ham thức dậy sớm, lấy thức ăn và một bầu da nước đưa cho Ha-ga, và đặt chúng trên vai bà, rồi bảo bà và đứa trẻ ra đi. Bà ra đi và lang thang trong sa mạc Bê-e Sê-ba. 15 Khi nước trong bầu da đã cạn, bà đem đứa trẻ để nằm dưới bóng mát của một bụi cây. 16 Ðoạn bà đi cách xa khoảng tầm bắn một mũi tên, đối diện với đứa trẻ, và ngồi xuống, vì bà nói, “Xin đừng để tôi thấy đứa trẻ lúc nó chết.” Bà ngồi đối ngang nó và bật khóc thành tiếng. 17 Ðức Chúa Trời nghe tiếng của đứa trẻ. Thiên Sứ của Ðức Chúa Trời từ trời gọi Ha-ga và nói với bà, “Hỡi Ha-ga, chuyện gì thế? Ðừng sợ, vì Ðức Chúa Trời đã nghe tiếng của đứa trẻ từ chỗ nó đang nằm. 18 Hãy đến, đỡ nó dậy, và ôm nó vào lòng ngươi, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân lớn.” 19 Ðoạn Ðức Chúa Trời mở mắt bà; bà thấy một giếng nước. Bà đến đó, lấy nước đầy bình da, và cho đứa trẻ uống. 20 Ðức Chúa Trời ở cùng đứa trẻ. Nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành một tay thiện xạ. 21 Nó sống trong Sa Mạc Pa-ran. Mẹ nó cưới cho nó một cô vợ người Ai-cập.
Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc Kết Ước
22 Lúc ấy A-bi-mê-léc và Phi-côn, tướng chỉ huy trưởng quân đội của ông, đến nói với Áp-ra-ham, “Ðức Chúa Trời ở với ông trong mọi việc ông làm. 23 Vậy bây giờ hãy thề với tôi trước mặt Ðức Chúa Trời rằng ông sẽ không gạt tôi, các con tôi, hoặc dòng dõi tôi, nhưng ông sẽ đối xử tử tế với tôi và với xứ sở ông đang trú ngụ, theo như lòng tử tế tôi đã đối với ông.”
24 Áp-ra-ham đáp, “Tôi xin thề.”
25 Kế đó Áp-ra-ham phàn nàn với A-bi-mê-léc về một giếng nước đã bị các tôi tớ của A-bi-mê-léc chiếm đoạt. 26 A-bi-mê-léc nói, “Tôi không biết ai đã làm việc ấy. Ông cũng không nói cho tôi hay. Mãi đến hôm nay tôi mới nghe việc nầy.”
27 Áp-ra-ham bắt các chiên và bò biếu cho A-bi-mê-léc, và hai người kết ước với nhau. 28 Áp-ra-ham lấy bảy con chiên tơ trong bầy và để riêng chúng ra. 29 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham, “Ông để riêng bảy con chiên tơ ấy ra làm chi vậy?”
30 Áp-ra-ham đáp, “Xin ngài nhận lấy bảy con chiên nầy từ tay tôi, để xác nhận rằng tôi đã đào cái giếng ấy.” 31 Vì thế người ta gọi nơi đó là Bê-e Sê-ba,[a] vì hai người đã thề với nhau tại đó.
32 Sau khi hai bên đã kết ước với nhau tại Bê-e Sê-ba, A-bi-mê-léc và Phi-côn chỉ huy trưởng quân đội của ông đứng dậy và trở về xứ của người Phi-li-tin. 33 Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e Sê-ba, và tại đó ông cầu khẩn danh Chúa, Ðức Chúa Trời Hằng Hữu.[b] 34 Áp-ra-ham tạm trú lâu ngày trong đất của người Phi-li-tin.
Các Công Nhân Vườn Nho
20 “Vương quốc thiên đàng giống như một điền chủ kia sáng sớm đi ra mướn các công nhân làm việc trong vườn nho mình. 2 Sau khi thỏa thuận với họ tiền công một đơ-na-ri một ngày, chủ sai họ vào làm việc trong vườn nho mình. 3 Khoảng chín giờ sáng,[a] chủ trở ra và thấy một số người khác đang đứng không ngoài chợ. 4 Chủ bảo họ, ‘Anh em hãy vào làm việc trong vườn nho của tôi. Tôi sẽ trả tiền công phải chăng cho.’ Vậy họ đi làm. 5 Ðến mười hai giờ trưa,[b] rồi ba giờ chiều,[c] chủ lại đi ra và làm y như vậy. 6 Vào khoảng năm giờ chiều,[d] chủ đi ra và thấy một số người khác đang đứng không ở đó. Chủ hỏi họ, ‘Tại sao các anh đứng không ở đây cả ngày như thế?’
7 Họ trả lời ông, ‘Bởi vì không ai mướn chúng tôi.’
Chủ nói với họ, ‘Vậy các anh cũng hãy vào làm việc trong vườn nho của tôi.’
8 Ðến chiều tối, chủ bảo người quản gia của ông, ‘Ông hãy gọi các công nhân vào và trả tiền công cho họ, bắt đầu với những người cuối, rồi trả dần đến những người đầu.’
9 Những người được mướn vào làm lúc năm giờ chiều đến và lãnh mỗi người một đơ-na-ri. 10 Ðến phiên những người được mướn đầu tiên, họ tưởng họ sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng ai nấy cũng chỉ nhận một đơ-na-ri. 11 Khi nhận tiền, họ cằn nhằn chủ điền, 12 ‘Mấy người cuối cùng này chỉ làm một giờ mà cũng được trả tiền công bằng chúng tôi, những người đã làm việc nặng nhọc dưới nắng nóng suốt ngày.’
13 Nhưng chủ trả lời với một người của họ, ‘Bạn ơi, tôi không đối xử tệ với bạn đâu. Có phải bạn đã đồng ý với tôi về tiền công một đơ-na-ri một ngày không? 14 Vậy bạn hãy cầm lấy phần của bạn và đi về. Còn tôi, tôi muốn trả tiền công cho những người vào làm sau cùng bằng tiền công của bạn. 15 Chẳng lẽ tôi không có quyền sử dụng của cải tôi theo ý tôi muốn sao? Hay bạn ganh tức vì tôi rộng rãi chăng?’
16 Những người đầu sẽ thành cuối, và những người cuối sẽ thành đầu là như vậy.”[e]
Chúa Báo Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài
(lần thứ ba)
(Mác 10:32-34; Lu 18:31-34)
17 Trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Ðức Chúa Jesus đem riêng mười hai môn đồ ra và bảo họ, 18 “Này, chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị phản nộp cho các trưởng tế và các thầy dạy giáo luật. Họ sẽ kết án tử hình Người 19 và sẽ trao Người cho dân ngoại để bị chế nhạo, đánh bằng roi, và đóng đinh, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại.”
Lời Yêu Cầu của Một Người Mẹ
(Mác 10:35-45)
20 Bấy giờ mẹ của các con Xê-bê-đê đưa hai con trai bà đến quỳ trước mặt Ngài và xin Ngài ban cho họ một đặc ân. 21 Ngài hỏi bà, “Bà muốn gì?”
Bà trả lời Ngài, “Xin Thầy cho hai con trai tôi, một đứa ngồi bên phải Thầy và một đứa ngồi bên trái Thầy trong vương quốc của Thầy.”
22 Nhưng Ðức Chúa Jesus trả lời và nói, “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén Ta sắp uống chăng?”
Họ trả lời Ngài, “Chúng con có thể uống.”
23 Ngài nói với họ, “Các ngươi thật sẽ uống chén của Ta, nhưng việc ngồi bên phải Ta hay bên trái Ta sẽ không do Ta ban cho, nhưng dành cho những ai được Cha Ta chuẩn bị.”
24 Khi mười môn đồ kia nghe việc đó, họ giận hai anh em ấy. 25 Nhưng Ðức Chúa Jesus gọi họ lại và nói, “Các ngươi biết rằng các vua chúa dân ngoại lấy quyền lực cai trị dân, còn các quan lại dùng quyền hành áp chế dân, 26 nhưng giữa các ngươi thì chẳng như vậy. Trong các ngươi, người nào muốn làm lớn sẽ làm đầy tớ các ngươi. 27 Người nào muốn làm đầu các ngươi sẽ làm nô lệ các ngươi; 28 ngay cả Con Người đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người.”
Chúa Chữa Lành Hai Người Mù
(Mác 10:46-52; Lu 18:35-43)
29 Khi họ rời Thành Giê-ri-cô, một đoàn dân rất đông đi theo Ngài. 30 Này, có hai người mù ngồi bên đường; khi nghe Ðức Chúa Jesus đi qua, họ cất tiếng kêu lớn rằng, “Lạy Chúa, Con Vua Ða-vít, xin thương xót chúng con!”
31 Ðám đông quát nạt và bảo họ im, nhưng họ lại càng kêu to hơn, “Lạy Chúa, Con Vua Ða-vít, xin thương xót chúng con!”
32 Ðức Chúa Jesus dừng lại, gọi họ đến, và hỏi, “Các ngươi muốn Ta làm gì cho các ngươi?”
33 Họ thưa với Ngài, “Lạy Chúa, xin mở mắt chúng con.”
34 Ðức Chúa Jesus động lòng thương xót; Ngài sờ vào mắt họ. Ngay lập tức, họ thấy được và đi theo Ngài.
10 Trên mặt văn kiện được đóng ấn ấy có tên của Tổng Trấn Nê-hê-mi con của Ha-ca-li-a, và Xê-đê-ki-a, 2 Sê-rai-a, A-xa-ri-a, Giê-rê-mi, 3 Pát-khua, A-ma-ri-a, Manh-ki-gia, 4 Hát-túc, Sê-ba-ni-a, Manh-lúc, 5 Ha-rim, Mê-rê-mốt, Ô-ba-đi-a, 6 Ða-ni-ên, Ghin-nê-thôn, Ba-rúc, 7 Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min, 8 Ma-a-xi-a, Bin-gai, Sê-ma-gia. Ðây là các tư tế.
9 Những người Lê-vi có Giê-sua con của A-xa-ni-a, Bin-nui một trong các con của Hê-na-đát, Cát-mi-ên, 10 và những người cộng sự của họ gồm: Sê-ba-ni-a, Hô-đi-a, Kê-li-ta, Pê-la-gia, Ha-nan, 11 Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bi-a, 12 Xác-cua, Sê-rê-bi-a, Sê-ba-ni-a, 13 Hô-đi-a, Ba-ni, và Bê-ni-nu.
14 Các nhà lãnh đạo của dân có Pa-rốt, Pa-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni, 15 Bun-ni, A-xơ-gát, Bê-bai, 16 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đin, 17 A-te, Hê-xê-ki-a, A-xua, 18 Hô-đi-a, Ha-sum, Bê-xai, 19 Ha-ríp, A-na-thốt, Nê-bai, 20 Mặc-pi-ách, Mê-su-lam, Hê-xia, 21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Gia-đua, 22 Pê-la-ti-a, Ha-nan, A-na-gia, 23 Hô-sê, Ha-na-ni-a, Hạc-súp, 24 Ha-lô-hết, Pin-ha, Sô-béc, 25 Rê-hum, Ha-sáp-na, Ma-a-sê-gia, 26 A-hi-a, Ha-nan, A-nan, 27 Manh-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na.
Tóm Lược Giao Ước
28 Những người còn lại trong dân gồm các tư tế, những người Lê-vi, những người giữ cửa, những người ca hát, những người phục vụ trong Ðền Thờ, và tất cả những ai đã tự tách rời ra khỏi các dân khác chủng tộc trong xứ để hết lòng vâng giữ luật pháp của Ðức Chúa Trời đã cùng với vợ, các con trai, các con gái, và tất cả thiếu niên đủ hiểu biết 29 hiệp với những người thân của họ, tức những nhà quyền quý, để lập một lời nguyền rủa và một lời thệ nguyện, hầu bước đi trong luật pháp của Ðức Chúa Trời, là luật đã ban cho Môi-se tôi tớ của Ðức Chúa Trời, vâng giữ và thực thi mọi điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, cùng các luật lệ và các mạng lịnh của Ngài.
30 Chúng tôi sẽ không gả con gái chúng tôi cho dân trong xứ và cũng không cưới con gái của họ cho con trai chúng tôi.
31 Nếu các dân khác chủng tộc trong xứ mang các hàng hóa hay lúa gạo đến bán trong ngày Sa-bát, chúng tôi sẽ không mua của họ bất cứ vật gì trong ngày Sa-bát hay trong ngày lễ thánh.
Cứ mỗi năm thứ bảy chúng tôi sẽ nghỉ canh tác và sẽ xóa mọi món nợ của nhau.
32 Chúng tôi tự buộc mình mỗi năm phải đóng góp một số tiền nhất định[a] để trang trải các chi phí cho việc phục vụ nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi. 33 Ðó là các chi phí để làm bánh dâng trên bàn thờ hằng tuần,[b] những của lễ chay định kỳ, những của lễ thiêu định kỳ, chi phí cho những ngày Sa-bát, những ngày lễ đầu tháng, những ngày đại lễ, mua sắm những vật thánh, chi phí cho những của lễ chuộc tội để chuộc tội cho dân I-sơ-ra-ên, và những chi phí khác cho mọi công việc của nhà Ðức Chúa Trời chúng tôi.
34 Chúng tôi cũng bắt thăm giữa vòng các tư tế, những người Lê-vi, và dân chúng để dâng củi và mang củi đến nhà Ðức Chúa Trời chúng tôi, cứ theo từng chi tộc, vào những thời điểm nhất định, năm này qua năm khác, để đốt trên bàn thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, y như đã ghi trong luật pháp.
35 Chúng tôi cũng tự buộc mình hằng năm phải đem đến dâng trong nhà Chúa những hoa quả đầu mùa của ruộng đất chúng tôi và những trái cây đầu mùa của mọi cây ra trái của chúng tôi.
36 Chúng tôi sẽ đem đến nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, tức đem đến cho các tư tế đang thi hành chức vụ trong nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, con trai đầu lòng của chúng tôi và con vật đầu lòng của súc vật chúng tôi, y như đã ghi trong luật pháp, tức các con vật đầu lòng của đàn bò đàn lừa chúng tôi và của đàn chiên đàn dê chúng tôi.
37 Ngoài ra chúng tôi sẽ đem phần bột thượng hạng, những của dâng, những trái cây của mỗi cây, rượu và dầu đến các tư tế, tức đem vào các kho của nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, và đem đến những người Lê-vi một phần mười các sản vật của ruộng đất chúng tôi, vì những người Lê-vi được hưởng nhận các của dâng một phần mười trong các thành ở miền quê. 38 Một tư tế trong dòng dõi của A-rôn sẽ có mặt với những người Lê-vi khi những người Lê-vi tiếp nhận các của dâng một phần mười. Những người Lê-vi sẽ lấy ra một phần mười từ các của dâng một phần mười để đem đến nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, tức đem đến các phòng chứa của nhà kho. 39 Dân I-sơ-ra-ên và các con cháu Lê-vi sẽ đem các của dâng lấy ra từ gạo, rượu, và dầu mang đến các phòng chứa, nơi có các vật dụng của đền thánh, nơi các tư tế thi hành chức vụ, và nơi những người giữ cửa và những người ca hát phục vụ. Chúng tôi sẽ không bỏ bê nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi.
Phao-lô tại Ma-xê-đô-ni-a
20 Sau khi cuộc rối loạn đã yên, Phao-lô mời các môn đồ đến; sau khi nói những lời khuyên nhủ, ông từ giã họ, lên đường qua Ma-xê-đô-ni-a. 2 Ông đi qua các miền đó, dùng nhiều lời khuyên nhủ các tín hữu, rồi đến Hy-lạp, 3 và ở tại đó ba tháng. Vì người Do-thái đã lập mưu toan ám sát ông, nên khi sắp xuống tàu để về Sy-ri-a, ông đã quyết định đổi qua ngả Ma-xê-đô-ni-a để trở về.
4 Tháp tùng với ông có Sô-pa-tê con Pi-ru người Bê-rê, A-ri-tạc và Sê-cun-đu là hai người Thê-sa-lô-ni-ca, Gai-út người Ðẹc-bê, Ti-mô-thê, Ty-chi-cơ và Trô-phi-mu là hai người A-si-a. 5 Những người ấy đã đi trước và đợi chúng tôi ở Trô-ách. 6 Còn chúng tôi, sau những ngày của Lễ Bánh Không Men chúng tôi xuống tàu tại Phi-líp, và năm ngày sau chúng tôi đến Trô-ách và gặp lại họ; chúng tôi ở lại đó bảy ngày.
Phao-lô Giảng tại Trô-ách
7 Ngày thứ nhất trong tuần chúng tôi họp nhau lại để dự Lễ Bẻ Bánh. Phao-lô giảng dạy cho các tín hữu. Vì hôm sau ông phải ra đi, nên ông giảng lâu đến nửa đêm. 8 Có nhiều đèn trong phòng trên lầu, nơi chúng tôi nhóm lại. 9 Có một cậu thiếu niên kia tên là Êu-ty-cơ ngồi trên thành cửa sổ để nghe giảng. Trong khi Phao-lô giảng lâu, cậu ngủ gục; vì ngủ say quá, cậu té từ tầng lầu thứ ba xuống đất; khi người ta đỡ cậu dậy thì cậu đã chết rồi. 10 Phao-lô đi xuống, cúi xuống đỡ lấy cậu, ôm cậu vào lòng, và nói, “Ðừng bối rối, vì cháu còn sống.” 11 Ðoạn ông đi lên, dự Lễ Bẻ Bánh, và ăn với anh chị em. Sau đó ông tiếp tục nói chuyện với họ đến sáng, rồi ông ra đi. 12 Họ đưa cậu thiếu niên được sống lại ấy đi về, và họ được an ủi không ít.
Phao-lô Ghé Qua Mi-lê-tu
13 Chúng tôi xuống tàu và cho giăng buồm đến A-sốt, nơi chúng tôi dự tính sẽ đón Phao-lô, vì ông đã sắp xếp như vậy; ông muốn đi đường bộ một mình một chặng. 14 Khi chúng tôi gặp ông ở A-sốt, chúng tôi đón ông lên tàu và cùng đến Thành Mi-ty-len. 15 Chúng tôi rời đó, ngày hôm sau tàu chạy ngang qua Ðảo Chi-ô, ngày kế tiếp chúng tôi đến Ðảo Sa-mô, và ngày sau đó chúng tôi đến Mi-lê-tu. 16 Số là Phao-lô đã quyết định rằng chúng tôi chỉ đi ngang qua Ê-phê-sô, để ông khỏi mất thì giờ nhiều ở A-si-a, vì ông rất nóng lòng muốn trở về Giê-ru-sa-lem để, nếu có thể được, kịp dự Lễ Ngũ Tuần.
Phao-lô Giảng Từ Biệt tại Ê-phê-sô
17 Lúc ở tại Mi-lê-tu, Phao-lô cho người mang tin đến Ê-phê-sô mời các vị trưởng lão của hội thánh đến gặp ông. 18 Khi họ đến nơi, ông nói với họ:
“Thưa anh chị em, từ ngày đầu tiên tôi đặt chân đến A-si-a, tôi sống như thế nào, trong suốt thời gian đó, anh chị em đã biết rõ. 19 Tôi đã phục vụ Chúa với tất cả lòng khiêm nhường, nhiều khi phải đổ nước mắt, gặp bao nhiêu khó khăn thách thức do người Do-thái lập mưu hại tôi. 20 Tôi đã không giữ lại bất cứ điều gì có lợi cho anh chị em mà không tỏ cho anh chị em biết. Tôi đã giảng dạy cho anh chị em ở những nơi công cộng và tại các tư gia. 21 Tôi đã làm chứng cho người Do-thái lẫn người Hy-lạp biết rằng họ phải ăn năn, trở về cùng Ðức Chúa Trời, và phải tin thờ Ðức Chúa Jesus là Chúa chúng ta. 22 Giờ đây, được Ðức Thánh Linh trói buộc, tôi đang trên đường về Giê-ru-sa-lem và không biết điều gì sẽ xảy đến cho tôi tại đó, 23 ngoại trừ Ðức Thánh Linh xác chứng cho tôi biết rằng, trong mỗi thành, xiềng xích và hoạn nạn đang chờ đợi tôi. 24 Nhưng tôi chẳng coi mạng sống mình là quý, miễn sao tôi chạy xong chặng đường và hoàn tất chức vụ mà tôi đã nhận lãnh từ Ðức Chúa Jesus, để làm chứng về Tin Mừng của ân sủng Ðức Chúa Trời.
25 Giờ đây, tôi biết rằng tất cả anh chị em, những người tôi đã có dịp rao giảng về vương quốc, sẽ không gặp mặt tôi nữa. 26 Vì thế, hôm nay tôi tuyên bố với anh chị em rằng tôi đã hoàn tất trách nhiệm[a] đối với huyết của tất cả anh chị em, 27 vì tôi đã không giữ lại điều gì, nhưng đã tiết lộ mọi ý chỉ của Ðức Chúa Trời cho anh chị em.
28 Anh chị em hãy giữ lấy chính mình và cả đàn chiên mà Ðức Thánh Linh đã lập anh chị em làm những người coi sóc. Hãy chăn giữ hội thánh của Ðức Chúa Trời,[b] là hội mà Ngài đã mua bằng chính huyết Ngài.
29 Tôi biết rằng sau khi tôi đi, muông sói dữ tợn sẽ đến giữa anh chị em; chúng không tiếc bầy đâu. 30 Từ giữa anh chị em sẽ có những người dấy lên, nói những lời bẻ cong sự thật, để lôi kéo các môn đồ theo họ. 31 Vì vậy anh chị em hãy coi chừng. Hãy nhớ rằng trong ba năm, ngày đêm tôi không ngừng khuyên bảo mọi người, lắm khi phải đổ nước mắt. 32 Bây giờ tôi phó thác anh chị em cho Ðức Chúa Trời và cho Ðạo[c] của ân sủng Ngài, là Ðạo có thể gây dựng anh chị em và ban cho anh chị em cơ nghiệp giữa mọi người được thánh hóa.
33 Tôi không ham bạc, vàng, hay áo quần của ai. 34 Anh chị em đã biết rõ rằng đôi tay này đã làm việc, để cung cấp nhu cầu của tôi và của những người đi với tôi. 35 Trong mọi sự, tôi đã bày tỏ cho anh chị em thấy rằng chúng ta phải giúp đỡ những người yếu, do đó chúng ta phải làm việc vất vả như thế. Hãy nhớ lại lời của Ðức Chúa Jesus, mà chính Ngài đã phán, ‘Ban cho có phước hơn nhận lãnh.’”
36 Khi ông nói xong những lời ấy, ông quỳ xuống và cầu nguyện với mọi người có mặt tại đó. 37 Mọi người đều bật khóc thành tiếng, và họ ôm cổ ông mà hôn. 38 Họ buồn nhất là khi nghe ông nói rằng họ sẽ không gặp mặt ông nữa. Sau đó họ tiễn ông xuống tàu.
Copyright © 2011 by Bau Dang