Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 18

Ðứa Con của Lời Hứa

18 Chúa hiện ra với Áp-ra-ham nơi đám sồi của Mam-rê. Vào một ngày rất nóng bức kia, ông đang ngồi trước cửa lều của ông; khi ngước nhìn lên, ông thấy ba người đàn ông đang đứng gần đó. Vừa thấy họ, ông liền từ cửa lều chạy ra chào họ. Ông sấp mình xuống đất trước mặt họ và nói, “Thưa Ngài, nếu tôi được ơn trước mặt Ngài, xin Ngài đừng vội rời tôi tớ Ngài mà tiếp tục lên đường, nhưng xin mời Các Ngài nghỉ mát dưới bóng cây nầy một lát, để tôi mang ra ít nước cho Các Ngài rửa chân. Xin để tôi mang ra một ít bánh để Các Ngài dùng cho vững bụng, rồi sau đó Các Ngài sẽ tiếp tục lên đường, vì Các Ngài đã chiếu cố đến thăm tôi tớ của Các Ngài.”

Họ đáp, “Hãy làm như điều ngươi vừa nói.”

Áp-ra-ham vội vàng đi vào lều của Sa-ra và nói, “Em hãy lấy ba lường bột hảo hạng, đem nhồi liền, và làm bánh đãi khách.” Xong Áp-ra-ham chạy đến bầy súc vật, bắt một con bê thịt mềm và ngon, giao cho một đầy tớ, và bảo phải làm thịt cho lẹ. Ðoạn ông lấy bơ, sữa, và thịt con bê đã nấu chín dọn ra trước mặt các đấng ấy; rồi ông đứng hầu dưới bóng cây trong khi khách dùng bữa.

Các đấng ấy hỏi ông, “Sa-ra vợ ngươi đâu?”

Ông đáp, “Thưa nàng đang ở trong lều kia.”

10 Một đấng nói, “Khoảng một năm nữa, Ta sẽ trở lại đây thăm ngươi, khi ấy Sa-ra vợ ngươi sẽ có một con trai.” Bấy giờ Sa-ra đang ngồi nơi cửa lều ở phía sau và nghe thoáng được điều đó – 11 Lúc ấy cả Áp-ra-ham và Sa-ra đều đã già và cao tuổi. Sa-ra đã qua thời kỳ sinh con[a] của phụ nữ– 12 Sa-ra cười thầm và tự nhủ, “Mình đã già rồi, chồng mình cũng đã già rồi, lẽ nào mình còn có niềm vui làm mẹ được sao?”

13 Chúa hỏi Áp-ra-ham, “Tại sao Sa-ra cười và nói, ‘Nay tôi đã già, lẽ nào tôi sẽ sinh con được sao?’ 14 Có gì quá khó cho Chúa chăng? Ðến thời điểm đã định, khoảng một năm nữa, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, khi ấy Sa-ra sẽ có một con trai.”

15 Nhưng Sa-ra chối rằng, “Tôi đâu có cười,” vì bà sợ.

Ngài phán, “Không, ngươi thật đã cười đó.”

Áp-ra-ham Cầu Thay cho Sô-đôm

16 Sau đó các đấng ấy đứng dậy khỏi chỗ đó và nhìn về hướng Sô-đôm; Áp-ra-ham đi theo họ để tiễn họ lên đường. 17 Chúa phán, “Ta có nên giấu Áp-ra-ham những gì Ta sắp làm chăng? 18 Này Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân lớn và mạnh; mọi nước trên thế gian sẽ nhờ nó mà được phước. 19 Vì Ta biết nó; nó sẽ dạy bảo con cái nó và những người nhà nó sau này giữ theo đường lối[b] Chúa, mà sống ngay lành và thi hành công lý, để Chúa sẽ thực hiện cho Áp-ra-ham những gì Ngài đã hứa với nó.” 20 Ðoạn Chúa phán, “Tiếng kêu gào nghịch lại Sô-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội của chúng quá nặng! 21 Ta phải đích thân ngự xuống để xem có đúng như tiếng kêu gào đã thấu đến Ta chăng. Thật hư thế nào, Ta sẽ rõ.”

22 Hai đấng kia quay bước rời nơi ấy và tiến về Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham vẫn còn đứng đó trước mặt Chúa. 23 Áp-ra-ham lại gần và thưa, “Chẳng lẽ Ngài sẽ diệt sạch cả người ngay lành luôn với kẻ gian ác sao? 24 Giả sử có năm mươi người ngay lành trong thành, chẳng lẽ Ngài sẽ diệt sạch nơi ấy, mà không chừa nó lại vì cớ năm mươi người ngay lành trong đó sao? 25 Chắc chắn Ngài không làm một việc như thế bao giờ. Giết người ngay lành chung với phường gian ác, và để người ngay lành bị hình phạt chung với kẻ gian ác; nguyện Ngài sẽ không bao giờ làm như thế. Lẽ nào Ðấng Phán Xét cả thế gian lại không thực thi công lý sao?”

26 Chúa phán, “Nếu Ta tìm thấy trong Thành Sô-đôm năm mươi người ngay lành, thì vì cớ năm mươi người ấy, Ta sẽ tha cho cả thành.”

27 Áp-ra-ham thưa, “Dẫu biết con đây chỉ là tro bụi, con cũng xin cả gan thưa với Chúa: 28 Giả như trong số năm mươi người ấy lỡ thiếu mất năm người, chẳng lẽ Ngài cũng sẽ tiêu diệt thành ấy, vì đã thiếu mất năm người sao?”

Ngài đáp, “Ta sẽ không tiêu diệt thành ấy, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người trong đó.”

29 Ông lại thưa với Ngài nữa, “Giả như chỉ tìm được bốn mươi người thì sao?”

Ngài đáp, “Vì cớ bốn mươi người ấy, Ta sẽ không tiêu diệt thành đâu.”

30 Ông lại thưa, “Ôi, xin Chúa đừng giận con nếu con nói tiếp: Giả như chỉ tìm được ba mươi người thì sao?”

Ngài đáp, “Ta sẽ không tiêu diệt thành đâu, nếu Ta tìm được ba mươi người trong đó.”

31 Ông nói, “Xin cho con dám cả gan thưa với Chúa thêm: Giả như chỉ tìm được hai mươi người thì sao?”

Ngài đáp, “Vì cớ hai mươi người ấy, Ta sẽ không tiêu diệt thành đâu.”

32 Bấy giờ ông nói, “Ôi xin Chúa đừng giận con, xin cho con nói chỉ một lần nầy nữa thôi: Giả như chỉ tìm thấy mười người thì sao?”

Ngài đáp, “Vì cớ mười người ấy, Ta sẽ không tiêu diệt thành đâu.”

33 Sau khi nói chuyện với Áp-ra-ham xong, Chúa lên đường; còn Áp-ra-ham trở về chỗ ở của ông.

Ma-thi-ơ 17

Chúa Biến Hóa Hình Dạng

(Mác 9:2-13; Lu 9:28-36)

17 Sáu ngày sau Ðức Chúa Jesus đem riêng Phi-rơ, Gia-cơ, và Giăng em Gia-cơ lên một ngọn núi cao. Ngài biến hóa hình dạng trước mặt họ. Mặt Ngài sáng rực như mặt trời, y phục của Ngài trở nên trắng toát như ánh sáng. Này, Môi-se và Ê-li xuất hiện và đàm đạo với Ngài.

Bấy giờ Phi-rơ thưa với Ðức Chúa Jesus, “Lạy Chúa, chúng ta ở đây tốt quá. Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho Môi-se, và một cái cho Ê-li.”

Khi Phi-rơ còn đang nói, này, một đám mây sáng rực đến bao phủ họ, và từ trong đám mây có tiếng phán, “Ðây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn. Hãy nghe lời Người.”

Khi các môn đồ nghe tiếng ấy, họ sấp mặt xuống đất vì quá sợ hãi. Nhưng Ðức Chúa Jesus đến gần, đưa tay chạm vào họ và nói, “Hãy đứng dậy và đừng sợ.” Khi họ nhìn lên, họ không thấy ai nữa, ngoại trừ một mình Ðức Chúa Jesus.

Trong khi họ từ trên núi xuống, Ðức Chúa Jesus ra lịnh cho họ, “Các ngươi không được nói cho ai biết khải tượng này cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại.”

10 Các môn đồ hỏi Ngài, “Thế tại sao những thầy dạy giáo luật lại bảo Ê-li phải đến trước?”

11 Ngài trả lời và nói, “Hẳn nhiên Ê-li phải đến để chỉnh đốn mọi sự; 12 nhưng Ta nói với các ngươi, Ê-li đã đến rồi, nhưng họ chẳng nhận ra ông ấy, mà còn đối xử với ông ấy theo ý họ muốn. Con Người cũng phải chịu khổ bởi tay họ như vậy.”

13 Bấy giờ các môn đồ hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Giăng Báp-tít.

Chúa Chữa Lành Cậu Bé Bị Kinh Phong

(Mác 9:14-29; Lu 9:37-43)

14 Khi họ đến với đoàn dân đông, một người đến quỳ trước mặt Ngài 15 và nói, “Lạy Chúa, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và khổ sở vô cùng. Cháu thường té vào lửa và ngã xuống nước. 16 Tôi đã đưa cháu đến với các môn đồ Ngài, nhưng họ không chữa được.”

17 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói, “Hỡi thế hệ vô tín và băng hoại này, Ta phải ở với các ngươi bao lâu nữa? Ta phải chịu đựng các ngươi bao lâu nữa? Hãy đem nó đến đây cho Ta.”

18 Ðức Chúa Jesus quở trừ ác quỷ, ác quỷ xuất ra khỏi đứa trẻ, và đứa trẻ được lành ngay giờ đó.

19 Bấy giờ các môn đồ đến gặp riêng Ðức Chúa Jesus và hỏi, “Tại sao chúng con không thể đuổi quỷ ấy ra được?”

20 Ngài trả lời họ, “Vì các ngươi yếu đức tin. Quả thật, Ta nói với các ngươi: Nếu các ngươi có đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể bảo núi này, ‘Hãy dời từ đây qua đó,’ thì nó sẽ dời qua, và không việc chi các ngươi chẳng làm được. 21 Nhưng với thứ quỷ này, nếu các ngươi không cầu nguyện và kiêng ăn, các ngươi khó có thể đuổi nó ra được.”[a]

Chúa Báo Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài

(lần thứ hai)

(Mác 9:30-32; Lu 9:43-45)

22 Trong khi họ họp nhau ở Ga-li-lê, Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Con Người sẽ bị phản nộp vào tay người ta. 23 Họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” Các môn đồ Ngài bèn lo buồn rất nhiều.

Chúa Nộp Thuế Ðền Thờ

24 Khi họ đến Ca-bê-na-um, những người thu hai đơ-rách-ma[b] tiền thuế đền thờ đến hỏi Phi-rơ, “Thầy của anh không nộp hai đơ-rách-ma tiền thuế đền thờ sao?”

25 Phi-rơ trả lời, “Có chứ.”

Vừa khi Phi-rơ vào nhà, Ðức Chúa Jesus hỏi ông trước, “Si-môn, ngươi nghĩ sao? Các vua thế gian thu sưu lấy thuế của ai? Của các con trai mình hay của người ngoài?”

26 Phi-rơ đáp, “Thưa của người ngoài.”

Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Như vậy con cái được miễn thuế. 27 Tuy nhiên để chúng ta không làm gương xấu cho họ, ngươi hãy ra biển câu cá; con nào dính câu và được kéo lên trước hết, hãy vạch miệng nó ra, ngươi sẽ thấy một đồng tiền ta-tê-ra[c] trong đó. Hãy lấy đồng tiền ấy đóng thuế cho ngươi và Ta.”

Nê-hê-mi 7

Sau khi tường thành đã được tái thiết, và tôi đã cho tra các cánh cửa ở các cổng thành vào, các đội ngũ canh gác, ca hát, và những người Lê-vi cũng đã được phân nhiệm, tôi lập Ha-na-ni em tôi làm thị trưởng, và Ha-na-ni-a làm người chỉ huy các binh sĩ bảo vệ thành, vì ông ấy là một người trung thành và kính sợ Ðức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi truyền cho họ, “Ðừng mở các cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi ánh nắng mặt trời lên. Hễ những người canh gác ban đêm còn đứng canh, các cổng thành vẫn phải đóng và cài then. Hãy cắt đặt dân cư Giê-ru-sa-lem thay phiên nhau canh gác. Một số sẽ đứng gác ở các trạm canh, và một số khác sẽ đứng gác trước nhà mình.”

Sổ Bộ Những Người Hồi Cư

(Êxr 2:1-70)

Khi ấy thành thì rộng và lớn, nhưng dân trong thành lại ít và nhà cửa chưa được xây dựng lại. Ðức Chúa Trời của tôi giục lòng tôi để tôi mời các nhà quý tộc, các quan chức, và dân lại để họ ghi danh theo gia phả của họ. Tôi đã tìm được một sổ danh bạ những người hồi hương đợt đầu, trong đó có ghi như sau:

Ðây là những người ở các tỉnh từ chốn lưu đày trở về, những người trong số những người đã bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem đi lưu đày đã trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Những người cùng trở về với Xê-ru-ba-bên gồm có: Giê-sua, Nê-hê-mi-a, A-xa-ri-a, Ra-a-mi-a, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.

Ðây là con số những người I-sơ-ra-ên đã từ chốn lưu đày trở về:

Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người.

10 Con cháu của A-ra, sáu trăm năm mươi hai người.[a]

11 Con cháu của Pa-hát Mô-áp, qua dòng dõi của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười tám người.[b]

12 Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

13 Con cháu của Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người.[c]

14 Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.

15 Con cháu của Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người.

16 Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người.[d]

17 Con cháu của A-xơ-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người.[e]

18 Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người.[f]

19 Con cháu của Bích-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người.[g]

20 Con cháu của A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người.[h]

21 Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người.

22 Con cháu của Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người.

23 Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi bốn người.[i]

24 Con cháu của Ha-ríp, một trăm mười hai người.

25 Con cháu của Ghi-bê-ôn, chín mươi lăm người.

26 Dân Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người.

27 Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người.

28 Dân Bết A-ma-vết, bốn mươi hai người.

29 Dân Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.

30 Dân Ghê-ba và Ra-ma, sáu trăm hai mươi mốt người.

31 Dân Mích-mác, một trăm hai mươi hai người.

32 Dân Bê-tên và Ai, một trăm hai mươi ba người.[j]

33 Dân Nê-bô khác, năm mươi hai người.

34 Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

35 Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người.

36 Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.

37 Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người.[k]

38 Con cháu của Sê-nê-a, ba ngàn chín trăm ba mươi người.[l]

39 Các tư tế: Con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người.

40 Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người.

41 Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.

42 Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

43 Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

44 Những người ca hát: con cháu của A-sáp, một trăm bốn mươi tám người.[m]

45 Những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.[n]

46 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 47 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a,[o] con cháu của Pa-đôn, 48 con cháu của Lê-ba-na. con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Sanh-mai, 49 con cháu của Ha-na, con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, 50 con cháu của Rê-a-gia, con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, 51 con cháu của Ga-xam, con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, 52 con cháu của Bê-sai, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phu-sê-sim, 53 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cư-pha, con cháu của Hạc-hưa, 54 con cháu của Ba-xơ-lít, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 55 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 56 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha.

57 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Sô-phê-rết, con cháu của Pê-ri-đa,[p] 58 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 59 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.[q]

60 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

61 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hay liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên không thể định rõ họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không.

62 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm bốn mươi hai người.[r]

63 Về các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai –Ông ấy là người đã cưới một cô trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ và đã đổi họ để theo họ vợ– 64 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không thể tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ đã bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 65 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết.

66 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 67 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người là các tôi trai và tớ gái; trong vòng họ cũng có hai trăm bốn mươi lăm người,[s] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng.

68 Toàn dân có được bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 69 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

70 Một số các trưởng tộc đã đóng góp vào quỹ tái thiết. Tổng trấn đóng góp vào trong kho một ngàn miếng[t] vàng, năm mươi tô vàng, và năm trăm ba mươi bộ lễ phục cho các tư tế. 71 Các vị trưởng tộc đã đóng góp vào trong kho hai mươi ngàn miếng vàng và hai ngàn hai trăm thỏi[u] bạc. 72 Dân chúng còn lại đã đóng góp hai mươi ngàn miếng vàng, hai ngàn thỏi bạc, và sáu mươi bảy bộ lễ phục cho các tư tế.

73 Như vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người canh cửa, những người ca hát, những người phục vụ nơi Ðền Thờ, và một số người nữa, nói chung mọi người I-sơ-ra-ên đều được định cư trong các thành của họ. Ðến tháng thứ bảy dân I-sơ-ra-ên đã ổn định chỗ ở trong các thành của họ.

Công Vụ Các Sứ đồ 17

Phao-lô và Si-la tại Thê-sa-lô-ni-ca

17 Sau khi Phao-lô và Si-la đi qua Thành Am-phi-pô-li và Thành A-pô-lô-ni-a, họ đến Thành Thê-sa-lô-ni-ca; ở đó có một hội đường của người Do-thái. Theo thói quen Phao-lô đến hội đường và liên tiếp ba ngày Sa-bát luận giải Kinh Thánh với họ. Ông giải thích và chứng minh rằng Ðấng Christ phải chịu khổ hình và phải sống lại từ cõi chết. Ông bảo, “Ðức Chúa Jesus này, Ðấng tôi rao giảng cho anh chị em, chính là Ðấng Christ.”

Một số người được thuyết phục và nhập theo Phao-lô và Si-la; trong số đó có nhiều người Hy-lạp theo Do-thái Giáo cách sùng kính và khá đông quý bà thuộc giới thượng lưu trong thành. Nhưng những người Do-thái không tin sinh lòng ganh tị; họ dẫn theo một số côn đồ ngoài chợ, tập họp một đám đông, và gây nên một cuộc náo loạn trong thành. Họ kéo đến nhà của Gia-sôn kiếm Phao-lô và Si-la để đem ra trước đám đông. Nhưng khi không tìm được hai ông, họ bắt Gia-sôn và một số anh chị em, lôi những người ấy đến trước chính quyền thành phố, rồi lớn tiếng tố cáo, “Những kẻ làm cho thế giới đảo lộn này bây giờ đang ở đây, thế mà Gia-sôn đã chứa chấp bọn chúng. Chúng đã nghịch lại những sắc chỉ của Hoàng Ðế Sê-sa, bảo rằng có một vua khác là Jesus.”

Dân chúng và những người lãnh đạo trong thành nghe thế thì bối rối. Nhưng sau khi họ nhận tiền thế chân cho Gia-sôn và các tín hữu, họ thả những người ấy ra.

Phao-lô và Si-la tại Bê-rê

10 Tối hôm đó anh chị em lập tức đưa Phao-lô và Si-la qua Thành Bê-rê. Khi vừa đến nơi, hai ông đi ngay đến hội đường của người Do-thái.

11 Những người Do-thái ở đây có trình độ[a] hơn những người ở Thê-sa-lô-ni-ca. Họ ghi nhận sứ điệp[b] với tất cả nhiệt tâm và ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh[c] để xem những điều được nghe giảng có đúng không. 12 Vì thế nhiều người giữa họ tin theo, cùng với một số phụ nữ Hy-lạp thuộc giới thượng lưu và một số quý ông người Hy-lạp.

13 Nhưng khi những người Do-thái ở Thê-sa-lô-ni-ca nghe rằng Phao-lô đã đến Bê-rê rao giảng Ðạo[d] của Ðức Chúa Trời, họ cũng kéo đến đó, sách động và gây náo loạn dân chúng.

14 Anh chị em tín hữu lập tức đưa Phao-lô xuống thuyền vượt biển, chỉ giữ Si-la và Ti-mô-thê ở lại Bê-rê. 15 Những người hộ tống Phao-lô đưa ông đến tận Thành A-thên; sau đó họ từ giã ông để trở về, mang theo chỉ thị, bảo Si-la và Ti-mô-thê phải đến với ông càng sớm càng tốt.

Phao-lô tại A-thên

16 Trong khi Phao-lô ở A-thên chờ Si-la và Ti-mô-thê đến, lòng ông nảy sinh bực bội, vì ông thấy thành phố đầy dẫy các tượng thần. 17 Vì thế ông đến hội đường để biện luận với những người Do-thái và những người dân ngoại tin theo Do-thái Giáo; ngày nào ông cũng ra khu hành chính thương mại để biện luận với bất cứ người nào ông gặp. 18 Cũng có mấy triết gia thuộc trường phái Khoái Lạc[e] và trường phái Khắc Kỷ[f] tranh luận với ông. Có người nói, “Người lắm lời này muốn nói gì?” Những người khác bảo, “Dường như ông ấy muốn rao giảng về các thần ngoại quốc nào đó.” Số là Phao-lô đã giảng cho họ Tin Mừng của Ðức Chúa Jesus và sự sống lại.

19 Họ đưa ông đến A-rê-ô-pa-gu[g] và yêu cầu, “Chúng tôi có thể biết giáo lý mới mà ông giảng là gì không? 20 Vì những điều ông đem đến nghe lạ tai với chúng tôi lắm. Chúng tôi muốn biết những điều đó có nghĩa gì.” 21 Số là người A-thên và các kiều dân ở đó không thích gì hơn là dành thì giờ để bàn tán hay nghe ngóng những gì mới lạ.

22 Bấy giờ Phao-lô đứng giữa A-rê-ô-pa-gu và nói,

“Kính thưa quý vị là những người ở A-thên: Tôi nhận thấy quý vị có lòng tín ngưỡng hơn ai cả. 23 Vì tôi đã đi khắp thành phố của quý vị, xem xét kỹ những tượng thần quý vị đang thờ, và tôi thấy một bàn thờ, trên đó có khắc những chữ, ‘Thờ Thần Không Biết.’ Vậy vị thần mà quý vị thờ nhưng không biết đó chính là vị thần tôi rao giảng cho quý vị đây.

24 Ðức Chúa Trời là Ðấng dựng nên vũ trụ và mọi vật trong đó. Vì Ngài là Ðấng chủ tể của trời và đất, Ngài không ngự trong các đền thờ do tay loài người làm nên. 25 Ngài cũng không cần bàn tay loài người phục vụ như thể Ngài cần điều gì, vì chính Ngài ban sự sống và hơi thở cho mọi loài mọi vật.

26 Từ một người Ngài đã tạo nên mọi dân tộc đang sống trên khắp mặt đất. Ngài đã ấn định các mùa và ranh giới cho nơi họ ở, 27 để họ tìm kiếm Ðức Chúa Trời, và may ra họ có thể dò dẫm mà tìm được Ngài, mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta; 28 vì ‘Trong Ngài chúng ta sống, động, và hiện hữu,’[h] như một vài thi sĩ của quý vị đã nói, ‘Chúng ta cũng là dòng giống của Ngài.’[i]

29 Vậy, vì là dòng giống của Ðức Chúa Trời, xin chúng ta đừng nghĩ rằng Ðức Chúa Trời giống như một tác phẩm bằng vàng, bạc, hoặc đá, do óc nghệ thuật và trí tưởng tượng của con người tạo nên. 30 Ðức Chúa Trời đã bỏ qua thời kỳ mông muội đó, nhưng bây giờ Ngài truyền rằng mọi người ở mọi nơi phải ăn năn, 31 vì Ngài đã định một ngày để phán xét cả thế gian theo lẽ công chính qua một Ðấng Ngài đã lập, và để xác nhận cho thẩm quyền của Ðấng ấy trước mọi người, Ngài đã làm cho Ðấng ấy sống lại từ cõi chết.”

32 Nhưng khi họ nghe nói đến sự sống lại của người chết, một vài người bắt đầu chế nhạo; rồi những người khác nói, “Chúng tôi sẽ nghe ông nói việc ấy vào một dịp khác.”

33 Nghe vậy Phao-lô bước ra khỏi những người ấy. 34 Nhưng có mấy người đi theo ông và tin. Trong số đó có Ði-ô-ni-si-u là thành viên của Hội Ðồng A-rê-ô-pa-gu, một bà tên là Ða-ma-ri, và một số người khác cùng tin với họ.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang