Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Sáng Thế 2

Ðức Chúa Trời Biệt Riêng Ngày Thứ Bảy Ra Thánh

Ấy vậy công cuộc tạo dựng trời, đất, và muôn loài thọ tạo đã hoàn tất. Ðến ngày thứ bảy Ðức Chúa Trời hoàn tất công việc Ngài đã làm, và ngày thứ bảy Ngài nghỉ, không làm mọi việc Ngài đã làm. Ðức Chúa Trời ban phước cho ngày thứ bảy và biệt riêng ngày ấy ra thánh, vì trong ngày đó Ðức Chúa Trời đã nghỉ, không làm những việc Ngài đã làm trong cuộc sáng tạo.

Ấy là gốc tích của trời và đất khi chúng được dựng nên.

Một Số Chi Tiết Khác về Công Cuộc Tạo Dựng

Trong ngày Chúa Ðức Chúa Trời[a] dựng nên đất và trời – trước khi cây cối ngoài đồng có trên mặt đất và trước khi rau cỏ ngoài đồng mọc lên, vì Chúa Ðức Chúa Trời chưa ban mưa xuống đất, và cũng chưa có loài người để canh tác trên mặt đất, nhưng có hơi nước từ dưới đất bốc lên và thấm nhuần khắp mặt đất– Chúa Ðức Chúa Trời dùng bụi đất nắn nên con người, rồi hà sinh khí vào lỗ mũi, con người trở nên một sinh vật có linh hồn.

Chúa Ðức Chúa Trời cũng lập một vườn tại Ê-đen, ở phía đông, rồi đặt con người Ngài đã dựng nên vào đó.

Từ dưới mặt đất Chúa Ðức Chúa Trời cho mọc lên những cây thật đẹp mắt, trái chúng dùng làm thực phẩm rất ngon; ở giữa vườn cũng có cây sự sống và cây biết thiện và ác.

10 Có một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới vườn; con sông đó tẻ ra bốn nhánh. 11 Nhánh thứ nhất tên là Pi-sôn; đó là sông chảy quanh khắp xứ Ha-vi-la, nơi có vàng. 12 Vàng ở xứ đó có phẩm chất tốt; nơi đó cũng có dược liệu thơm hiếm có và đá quý. 13 Nhánh thứ hai là Ghi-hôn; đó là sông chảy quanh khắp xứ Cút. 14 Tên của nhánh thứ ba là Khít-đê-ken,[b] chảy về hướng đông của A-sy-ri. Nhánh thứ tư là Ơ-phơ-rát.

15 Chúa Ðức Chúa Trời đem con người đặt trong Vườn Ê-đen để trồng trọt và giữ vườn. 16 Chúa Ðức Chúa Trời ra lịnh cho con người, “Ngươi được tự do ăn mọi cây trái trong vườn, 17 nhưng về cây biết thiện và ác ngươi chớ ăn, vì hễ ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi sẽ chết.”

18 Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời phán, “Con người[c] ở một mình không tốt. Ta sẽ dựng nên một bạn đời thích hợp để giúp đỡ nó.”

19 Chúa Ðức Chúa Trời lấy đất làm nên mọi thú đồng và mọi chim trời, rồi đem chúng đến A-đam, để xem ông gọi chúng thế nào; hễ A-đam gọi mỗi sinh vật là gì thì nó sẽ trở thành tên của sinh vật đó. 20 A-đam đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời, và mọi thú đồng, nhưng chính A-đam, ông không tìm được ai làm bạn đời thích hợp để giúp đỡ ông. 21 Vì thế Chúa Ðức Chúa Trời khiến A-đam ngủ mê, và ông ngủ mê man. Ngài lấy một xương sườn của A-đam rồi lấp thịt thế vào chỗ ấy. 22 Kế đó Chúa Ðức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam tạo nên một người nữ, rồi đem nàng đến với A-đam. 23 Bấy giờ A-đam nói,

“Cuối cùng tôi cũng có được một người;
Người nầy có xương từ xương tôi mà ra, và thịt từ thịt tôi mà ra;
Người nầy sẽ được gọi là người nữ,[d]
Vì người nầy đã từ người nam mà ra.”

24 Bởi vậy người nam sẽ rời cha mẹ để kết hợp với vợ mình, và hai người sẽ trở nên một thịt. 25 Thuở ấy cả A-đam và vợ ông đều trần truồng, nhưng họ không hề cảm thấy e thẹn.

Ma-thi-ơ 2

Các Nhà Thông Thái Tìm Chúa

Sau khi Ðức Chúa Jesus giáng sinh tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, trong thời Vua Hê-rốt trị vì, này, có mấy nhà thông thái từ phương đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi, “Vua dân Do-thái mới sinh tại đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài bên phương đông, nên đến để bái kiến[a] Ngài.”

Nghe tin ấy Vua Hê-rốt bối rối, và cả Thành Giê-ru-sa-lem đều xôn xao. Ông triệu tập tất cả các trưởng tế và các thầy dạy giáo luật trong dân lại và hỏi họ, “Ðấng Christ phải sinh ra tại đâu?”

Họ tâu, “Tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, vì có đấng tiên tri đã viết như thế này,

‘Còn ngươi, hỡi Bết-lê-hem của Giu-đa,
Ngươi không phải là thành nhỏ nhất trong các thành của Giu-đa đâu,
Vì từ ngươi sẽ ra một lãnh tụ,
Một Ðấng sẽ chăn dắt dân I-sơ-ra-ên của Ta.’”Mic 5:1-2

Bấy giờ Vua Hê-rốt bí mật mời các nhà thông thái đến, để hỏi họ kỹ càng về thời điểm ngôi sao đã xuất hiện. Ðoạn ông bảo họ đến Bết-lê-hem và dặn, “Các ngươi hãy đi và tìm cho kỹ về con trẻ đó. Khi tìm được, hãy báo cho ta biết, để ta cũng đến bái kiến người.”

Sau khi nghe vua phán, họ ra đi. Kìa, ngôi sao họ đã thấy bên phương đông đi trước họ cho đến chỗ có Hài Nhi thì dừng lại. 10 Khi thấy ngôi sao, họ rất đỗi vui mừng. 11 Vừa khi vào nhà, họ thấy Hài Nhi với Ma-ry mẹ Ngài, họ sấp mình xuống và thờ lạy Ngài. Ðoạn họ mở các hộp đựng bửu vật, lấy các lễ vật gồm vàng, nhũ hương, và mộc dược dâng lên Ngài. 12 Sau đó, vì được Ðức Chúa Trời báo mộng, bảo đừng trở lại gặp Hê-rốt, họ đi đường khác trở về xứ mình.

Chúa Tỵ Nạn Qua Ai-cập

13 Sau khi họ đi rồi, một thiên sứ của Chúa hiện đến với Giô-sép trong chiêm bao và truyền, “Hãy đứng dậy, đem Hài Nhi và mẹ Ngài lánh qua Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi ta bảo ngươi, vì Hê-rốt đang tìm giết Hài Nhi.”

14 Giô-sép liền thức dậy, ban đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Ngài xuống Ai-cập, 15 rồi họ cứ ở đó cho đến khi Hê-rốt băng hà; điều đó làm ứng nghiệm lời Chúa đã phán qua đấng tiên tri rằng, “Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai-cập.”Hô 11:1; Xuất 4:22-23

Hê-rốt Giết Các Trẻ Thơ

16 Khi Hê-rốt thấy ông đã bị các nhà thông thái lừa, ông rất giận. Ông ra lịnh cho các thuộc hạ giết tất cả các trẻ thơ trong Thành Bết-lê-hem và các vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, theo ngày tháng các nhà thông thái đã cho ông biết. 17 Thế là lời Tiên Tri Giê-rê-mi đã nói được ứng nghiệm,

18 “Người ta nghe tiếng ai oán ở Ra-ma,
Tiếng than khóc và rên rỉ rất thê lương,
Tiếng Ra-chên than khóc các con nàng,
Nàng từ chối không để ai an ủi,
Vì chúng không còn nữa.”Giê 31:15

Chúa Từ Ai-cập Trở Về

19 Sau khi Hê-rốt chết, này, một thiên sứ của Chúa hiện ra với Giô-sép trong chiêm bao tại Ai-cập và truyền, 20 “Hãy đứng dậy, đem Ấu Nhi và mẹ Ngài trở về đất I-sơ-ra-ên, vì những kẻ tìm giết Ấu Nhi đã chết.”

21 Vậy Giô-sép đứng dậy, đưa Ấu Nhi và mẹ Ngài trở về đất I-sơ-ra-ên. 22 Nhưng khi Giô-sép nghe rằng A-chê-la-u đang trị vì ở Giu-đê, kế vị Hê-rốt cha ông, Giô-sép sợ và không muốn về đó. Nhờ được mách bảo trong chiêm bao, Giô-sép lánh về miền Ga-li-lê; 23 ông đến định cư tại một thành tên Na-xa-rét. Thế là ứng nghiệm lời các đấng tiên tri đã nói, “Ngài sẽ được gọi là người Na-xa-rét.”[b]

Ê-xơ-ra 2

Danh Sách Những Người Hồi Hương

(Nê 7:4-72)

Sau đây là những người đã từ các tỉnh ở nơi lưu đày trở về. Họ là những người đã bị bắt đem đi lưu đày, tức bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem sang Ba-by-lôn để lưu đày,[a] và được trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Cùng trở về với Xê-ru-ba-bên có Giê-sua, Nê-hê-mi-a, Sê-ra-gia, Rê-ê-lai-a, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rê-hum, và Ba-a-nát.

Ðây là số những người hồi hương trong dân I-sơ-ra-ên:

Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của A-ra, bảy trăm bảy mươi lăm người.[b]

Con cháu của Pa-hát Mô-áp, tức con cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai người.[c]

Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

Con cháu của Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm người.[d]

Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.

10 Con cháu của Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai người.

11 Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba người.[e]

12 Con cháu của A-xơ-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai người.[f]

13 Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu người.[g]

14 Con cháu của Bích-vai, hai ngàn năm mươi sáu người.[h]

15 Con cháu của A-đin, bốn trăm năm mươi bốn người.[i]

16 Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người.

17 Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi ba người.[j]

18 Con cháu của Giô-ra, một trăm mười hai người.

19 Con cháu của Ha-sum, hai trăm hai mươi ba người.

20 Con cháu của Ghi-ba, chín mươi lăm người.

21 Con cháu của Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba người.

22 Dân Nê-tô-pha, năm mươi sáu người.

23 Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người.

24 Con cháu của A-ma-vết, bốn mươi hai người.

25 Con cháu của Ki-ri-át A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.

26 Con cháu của Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người.

27 Dân Mích-mác, một trăm hai mươi hai người.

28 Dân Bê-tên và Ai, hai trăm hai mươi ba người.[k]

29 Con cháu của Nê-bô, năm mươi hai người.

30 Con cháu của Mắc-bích, một trăm năm mươi sáu người.

31 Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

32 Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người.

33 Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm người.[l]

34 Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.

35 Con cháu của Sê-na-a, ba ngàn sáu trăm ba mươi người.[m]

36 Về các tư tế: con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người.

37 Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người.

38 Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.

39 Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

40 Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua và Cát-mi-ên, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

41 Những người ca hát thờ phượng: con cháu của A-sáp, một trăm hai mươi tám người.[n]

42 Con cháu của những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi chín người.[o]

43 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 44 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a-ha,[p] con cháu của Pa-đôn, 45 con cháu của Lê-ba-na, con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Ạc-cúp, 46 con cháu của Ha-gáp, con cháu của Sam-lai, con cháu của Ha-nan, 47 con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, con cháu của Rê-a-gia, 48 con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, con cháu của Ga-xam, 49 con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, con cháu của Bê-sai, 50 con cháu của Át-na, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phi-sim, 51 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cu-pha, con cháu của Hạc-hưa, 52 con cháu của Ba-xơ-lút, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 53 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 54 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha.

55 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Hạc-sô-phê-rết, con cháu của Pê-ru-đa,[q] 56 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 57 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-mi.[r]

58 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

59 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng vì họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hoặc liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên người ta không thể xác định họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không.

60 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm năm mươi hai người.[s]

61 Con cháu của các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai. (Ông nầy là người đã cưới một trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ, và ông đã đổi họ để theo họ vợ.) 62 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không được tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 63 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết.

64 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy tôi trai và tớ gái. Trong vòng họ cũng có hai trăm người,[t] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng.

66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

68 Khi về đến Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số vị trưởng gia tộc đã tự động quyên góp một số tiền và lập quỹ tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời ở vị trí cũ. 69 Tùy theo khả năng của mỗi người, họ đã dâng vào quỹ tái thiết sáu mươi mốt ngàn miếng[u] vàng, năm ngàn thỏi[v] bạc, và một trăm bộ lễ phục cho các tư tế.

70 Vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát, những người canh cửa, và những người phục vụ ở Ðền Thờ đều định cư trong các thị trấn của họ quanh thủ đô, còn tất cả những người I-sơ-ra-ên còn lại đều trở về định cư trong các thành của họ khắp nơi trong xứ.

Công Vụ Các Sứ đồ 2

Ðức Thánh Linh Giáng Lâm

Ðến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ đang họp nhau tại một chỗ. Thình lình có tiếng từ trời xuống như tiếng gió thổi rất mạnh, ùa tràn vào căn nhà họ đang ngồi. Họ thấy có gì giống như những lưỡi bằng lửa bay ra và đậu trên mỗi người. Tất cả được đầy dẫy Ðức Thánh Linh và bắt đầu nói những ngôn ngữ khác, theo như Ðức Thánh Linh ban cho họ nói.

Lúc ấy tại Giê-ru-sa-lem đang có những người Do-thái tin kính từ mọi nước dưới trời. Nghe tiếng ồn ào, họ kéo đến thành một đám đông và lấy làm lạ, vì mỗi người đều nghe các môn đồ nói tiếng bản xứ của họ. Họ ngạc nhiên và sửng sốt nói với nhau, “Tất cả những người đang nói đó chẳng phải là người Ga-li-lê sao? Thế sao mỗi chúng ta đều nghe họ nói tiếng bản xứ chúng ta? Nào người Pạc-thi, người Mê-đi, người Ê-lam, và những người sống ở Mê-sô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-xi-a, Pôn-tơ, A-si-a, 10 Phi-ry-gi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và dân ở những vùng Li-by-a gần Sy-rê-nê, nào những khách hành hương đến từ Rô-ma, 11 gồm người Do-thái và những người ngoại quốc theo Do-thái Giáo, nào người Cơ-rết và người Ả-rập; chúng ta thảy đều nghe họ nói những việc quyền năng diệu kỳ của Ðức Chúa Trời trong ngôn ngữ chúng ta!”

12 Mọi người đều sửng sốt và hoang mang nói với nhau, “Việc này có nghĩa gì?” 13 Nhưng những người khác thì chế nhạo và nói, “Họ say rượu mới đó mà.”

Phi-rơ Rao Giảng về Chúa

14 Bấy giờ Phi-rơ đứng ra với mười một sứ đồ, cất tiếng và nói với họ,

“Thưa đồng bào Do-thái và mọi người đang ở Giê-ru-sa-lem, xin hãy biết rõ điều này và xin lắng tai nghe tôi nói: 15 Không phải những người này say rượu như anh chị em tưởng đâu, vì bây giờ mới chín giờ sáng,[a] 16 nhưng đây là những gì đấng Tiên Tri Giô-ên đã nói,

17 ‘Ðức Chúa Trời phán,
Trong những ngày cuối cùng,
Ta sẽ đổ Thần Ta trên mọi loài xác thịt.
Các con trai và các con gái các ngươi sẽ nói tiên tri;
Những người trẻ tuổi sẽ thấy các khải tượng;
Những người già cả sẽ mơ ước những ước mơ.[b]
18 Trong những ngày ấy,
Ta sẽ đổ Thần Ta trên các tôi trai và tớ gái của Ta;
Chúng sẽ nói tiên tri.
19 Ta sẽ ban những điềm lạ trên trời và những dấu kỳ dưới đất,
Ðó là máu, lửa, và những luồng khói.
20 Mặt trời sẽ trở nên tối tăm,
Mặt trăng sẽ đỏ như máu,
Trước ngày lớn và vinh hiển của Chúa đến.
21 Bấy giờ ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu.’Gên 2:28-32 LXX

22 Hỡi người I-sơ-ra-ên, xin lắng nghe những lời này: Ðức Chúa Jesus ở Na-xa-rét là Ðấng đã được Ðức Chúa Trời xác chứng với anh chị em bằng những việc quyền năng, phép lạ, và dấu kỳ; qua Ngài, Ðức Chúa Trời đã thực hiện những việc đó giữa anh chị em như chính anh chị em đã biết. 23 Theo kế hoạch đã vạch trước và theo sự biết trước của Ðức Chúa Trời, anh chị em đã nộp Ngài vào tay những kẻ không coi Luật Pháp ra gì[c] để đóng đinh Ngài trên cây thập tự, và giết đi. 24 Nhưng Ðức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại, giải thoát Ngài khỏi những đau đớn của sự chết, vì sự chết không thể nào giữ Ngài lại. 25 Vì Vua Ða-vít đã nói về Ngài rằng,

‘Tôi hằng để Chúa ở trước mặt tôi;
Vì Ngài ở bên phải tôi, nên tôi chẳng bị rúng động.
26 Vì thế lòng tôi vui vẻ, lưỡi tôi mừng rỡ,
Và thân xác tôi cũng sẽ sống[d] trong hy vọng.
27 Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi luôn trong âm phủ;
Ngài sẽ không để cho Người Thánh của Ngài thấy sự rữa nát.
28 Chúa đã chỉ cho tôi con đường sự sống;
Ngài sẽ cho tôi đầy tràn niềm vui trước thánh nhan Ngài.’Thi 16:8-11 LXX

29 Thưa anh chị em, tôi xin nói một cách quả quyết với anh chị em về tổ phụ Ða-vít của chúng ta rằng, vua đã chết và được chôn; mồ mả của vua vẫn còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. 30 Nhưng vì vua là một vị tiên tri và biết rằng Ðức Chúa Trời đã lấy lời thề mà thề với vua rằng Ngài sẽ đặt một người trong dòng dõi của vua ngồi trên ngai của vua.Thi 132:11 31 Vì đã thấy trước như thế nên vua đã nói về sự sống lại của Ðấng Christ rằng,

‘Ngài sẽ chẳng bị bỏ luôn trong âm phủ,
Và thân thể Ngài sẽ không thấy sự rữa nát.’Thi 16:10

32 Ðức Chúa Jesus này đã được Ðức Chúa Trời làm cho sống lại, và tất cả chúng tôi đây là các nhân chứng cho việc ấy.

33 Vậy sau khi đã được cất lên ngự bên phải Ðức Chúa Trời và đã nhận lãnh Ðức Thánh Linh mà Ðức Chúa Cha đã hứa, Ngài tuôn đổ Ðức Thánh Linh ra như anh chị em đã thấy và nghe. 34 Vì Vua Ða-vít chưa từng lên trời, nhưng chính vua đã nói,

‘Chúa phán với Chúa của tôi,
“Con hãy ngồi bên phải Ta,
35 Cho đến khi Ta đặt những kẻ thù của Con làm bệ chân Con.”’Thi 110:1

36 Vậy hỡi toàn thể nhà I-sơ-ra-ên, xin hãy biết một cách chắc chắn rằng: Ðức Chúa Jesus, Ðấng anh chị em đóng đinh trên cây thập tự, đã được Ðức Chúa Trời lập làm Chúa và Ðấng Christ.”[e]

Dân Ðáp Ứng

37 Bấy giờ khi nghe như thế, họ cảm thấy đau nhói trong lòng; họ nói với Phi-rơ và các vị sứ đồ còn lại, “Thưa các anh em, chúng tôi phải làm gì?”

38 Phi-rơ nói với họ, “Hãy ăn năn. Mỗi người trong anh chị em phải chịu báp-têm trong danh Ðức Chúa Jesus Christ để được tha tội, và anh chị em sẽ nhận món quà là Ðức Thánh Linh. 39 Vì lời hứa ấy đã dành cho anh chị em, cho con cháu của anh chị em, và cho mọi người ở xa, tức mọi người mà Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, sẽ gọi.”

40 Phi-rơ còn dùng nhiều lời khác để làm chứng và kêu gọi họ rằng, “Anh chị em hãy cứu lấy mình khỏi thế hệ gian tà này.”

41 Vậy những người tin nhận lời ông đều chịu báp-têm, và hôm đó có khoảng ba ngàn linh hồn thêm vào số các môn đồ.

Cộng Ðồng Tín Hữu Ðầu Tiên

42 Những người ấy cứ chuyên tâm vâng giữ lời dạy của các sứ đồ, giao hảo thân tình với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và các buổi nhóm cầu nguyện.

43 Bấy giờ mọi người có cảm giác sợ hãi; các sứ đồ đã làm nhiều việc diệu kỳ và phép lạ. 44 Khi ấy tất cả các tín hữu hiệp lại với nhau và lấy mọi vật làm của chung. 45 Họ bán đất đai và tài sản, rồi lấy tiền bán được chia cho mọi người, tùy theo nhu cầu của mỗi người. 46 Hằng ngày họ một lòng chăm chỉ đến đền thờ; còn tại các tư gia, họ cử hành lễ bẻ bánh và dùng bữa với nhau với lòng vui vẻ và chân thành. 47 Họ ca ngợi Ðức Chúa Trời và được lòng mọi người. Mỗi ngày Chúa thêm những người được cứu vào số người của họ.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang