Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
II Sử Ký 3-4

Sa-lô-môn Xây Cất Ðền Thờ

(1 Vua 6:1-38)

Bấy giờ Sa-lô-môn cho khởi công xây cất Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, trên Núi Mô-ri-a, nơi Chúa đã hiện ra với Ða-vít cha ông, ở chỗ mà Ða-vít đã chọn sẵn, trong sân đập lúa của Ọt-nan người Giê-bu-si. Ông cho khởi công xây cất vào ngày mồng hai tháng hai, năm thứ tư của triều đại ông.

Ðây là kích thước của cái nền mà Sa-lô-môn đã đặt để xây Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Chiều dài ba mươi mét và chiều rộng mười mét,[a] tính theo thước cũ. Tiền đình ở phía trước Ðền Thờ dài mười mét,[b] nằm dọc theo chiều rộng của Ðền Thờ. Chiều cao sáu mươi mét.[c] Toàn thể mặt trong đều được dát bằng vàng ròng. Ông dùng gỗ trắc lát mặt trong của phòng chính Ðền Thờ. Sau đó ông dùng vàng thượng hạng dát lên trên, và cho khắc hình các cây chà là và các dây xích trên mặt tường. Ông trang trí Ðền Thờ bằng những đá quý. Loại vàng ông dùng là vàng Pạc-va-im. Ông dát vàng khắp Ðền Thờ, gồm các đà ngang của trần nhà, các khung cửa, các vách tường, và các cánh cửa; trên các vách tường ông chạm hình các chê-ru-bim.

Ông xây Nơi Chí Thánh. Chiều dọc của phòng ấy dài bằng chiều rộng của Ðền Thờ, tức mười mét, và chiều ngang của phòng ấy cũng mười mét. Ông dùng hai mươi ngàn bốn trăm ký[d] vàng thượng hạng để dát toàn thể mặt trong của phòng ấy. Ông dùng các đinh nặng năm trăm bảy mươi lăm gờ-ram[e] một cái. Ông dát vàng các phòng nhỏ ở tầng trên.

10 Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai tượng chê-ru-bim[f] và dát vàng chúng; đó là một tác phẩm của nghệ thuật điêu khắc. 11 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài mười mét. Một cánh của chê-rúp nầy dài hai mét rưỡi[g] dang ra chạm vào tường Ðền Thờ, còn cánh kia cũng dài hai mét rưỡi và dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp kia. 12 Tương tự một cánh của chê-rúp kia dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào tường bên kia của Ðền Thờ, còn cánh khác cũng dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp nầy. 13 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài cả thảy mười mét. Hai chê-ru-bim đó đứng trên chân mình, và mặt nhìn vào Nơi Thánh. 14 Ông làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn, rồi thêu hình các chê-ru-bim lên màn đó.

15 Phía trước Ðền Thờ, ông dựng hai cây trụ, mỗi trụ cao mười bảy mét rưỡi,[h] trên đỉnh mỗi trụ có một cái đầu trụ cao hai mét rưỡi. 16 Ông làm các dây chuyền và treo chúng quanh hai đầu trụ ấy. Ông làm một trăm trái lựu và treo chúng vào các dây chuyền ấy. 17 Ông dựng hai trụ ở trước Ðền Thờ, một trụ bên phải và một trụ bên trái. Ông đặt tên cho trụ bên phải là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-a.

Các Vật Dụng trong Ðền Thờ

Ông làm một bàn thờ bằng đồng, chiều dọc mười mét, chiều ngang mười mét, và chiều cao năm mét.[i]

Ông đúc một bể nước tròn bằng đồng, đường kính của miệng bể năm mét, bể cao hai mét rưỡi, chu vi mười lăm mét[j] nếu đo bằng thước dây. Bên dưới gờ quanh miệng bể là hai hàng hình các con bò đúc nổi trên thân bể. Chúng được đúc cùng một lượt với bể, cứ khoảng nửa mét mười con. Bể được đặt trên lưng mười hai con bò. Ba con quay về hướng bắc, ba con quay về hướng tây, ba con quay về hướng nam, và ba con quay về hướng đông. Bể đồng ấy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, thân sau của chúng đều quay vào trong. Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay. Miệng bể được đúc như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy có thể chứa đến sáu mươi sáu ngàn lít[k] nước.

Ông cũng làm mười cái bồn nước để rửa. Ông đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái. Người ta dùng các bồn nước ấy để rửa các của lễ sẽ đem thiêu. Còn cái bể đồng thì chỉ để cho các tư tế dùng.

Ông làm mười cây đèn bằng vàng như đã chỉ bảo, rồi đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái ở phía nam và năm cái ở phía bắc.

Ông làm mười cái bàn và đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái bên phải và năm cái bên trái. Ông làm một trăm cái chậu bằng vàng.

Ông xây một sân dành cho các tư tế, và một sân lớn, cùng làm các cửa cho sân. Ông dát đồng các cửa ấy. 10 Ông đặt bể nước ở góc đông nam của Ðền Thờ.

11 Hu-ram làm các nồi, các xẻng, và các bình rảy. Vậy Hu-ram hoàn tất công tác chế tạo các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời theo như Vua Sa-lô-môn đã chỉ thị: 12 hai cây trụ, hai bầu trên đầu hai trụ, hai bộ lưới trang trí quanh bầu trên đầu hai trụ, 13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai bộ lưới. Mỗi bộ lưới được gắn hai hàng trái lựu, để trang trí hai bầu trên đầu hai trụ. 14 Ông làm mười chiếc xe và các bồn nước đặt trên các xe ấy, 15 một cái bể và mười hai con bò đỡ bên dưới bể ấy, 16 các nồi, các xẻng, các chĩa thịt, và các dụng cụ liên hệ. Hu-ram A-bi chế tạo tất cả các vật dụng đó cho Ðền Thờ bằng đồng đánh bóng, theo như chỉ thị của Sa-lô-môn. 17 Vua cho dùng đất sét làm khuôn để đúc chúng trong Ðồng Bằng Giô-đanh, giữa Súc-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn cho làm rất nhiều các món ấy, và số lượng đồng dùng để chế tạo chúng rất nhiều, không sao cân xuể. 19 Sa-lô-môn làm tất cả các đồ vật trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng, các bàn để các Bánh Hằng Hiến, 20 các cây đèn và các ngọn đèn đều bằng vàng ròng, để thắp sáng phía trước Nơi Chí Thánh như đã quy định. 21 Các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng ròng; 22 các kéo cắt tim đèn, các chậu, các bát dâng hương, và các khay than đều bằng vàng ròng. Về các lối ra vô trong Ðền Thờ, tức các cửa bên trong để ra vào Nơi Chí Thánh và các cửa ra vào Nơi Thánh đều được dát vàng.

I Giăng 3

Con Cái của Ðức Chúa Trời

Hãy xem, tình yêu Ðức Chúa Cha đã ban cho chúng ta thật tuyệt diệu dường nào, đó là chúng ta được gọi là con cái Ðức Chúa Trời, và thật vậy chúng ta là con cái Ngài. Sở dĩ thế gian không biết chúng ta vì thế gian không biết Ngài.

Anh chị em yêu dấu, bây giờ chúng ta là con cái Ðức Chúa Trời, và chúng ta sẽ ra sao thì chưa được tiết lộ, nhưng điều chúng ta biết chắc là khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ trở nên giống như Ngài, vì Ngài như thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như thể ấy. Phàm ai có hy vọng này nơi Ngài thì phải làm cho mình trở nên tinh khiết như Ngài là tinh khiết.

Ai phạm tội là phạm điều trái với luật pháp, vì tội lỗi là trái với luật pháp. Anh chị em biết rằng Ngài đã xuất hiện để cất bỏ tội lỗi, và trong Ngài không có tội lỗi. Ai cứ ở trong Ngài thì không còn khuynh hướng phạm tội; ai cứ phạm tội là chưa thấy Ngài và chưa biết Ngài.

Hỡi các con thơ, đừng để ai lừa gạt các con. Ai làm điều công chính là người công chính, như chính Ngài là công chính. Ai cứ phạm tội là thuộc về Ác Quỷ, vì Ác Quỷ đã phạm tội từ ban đầu. Vì lý do đó Con Ðức Chúa Trời đã xuất hiện để hủy diệt công việc của Ác Quỷ.

Ai do Ðức Chúa Trời sinh ra thì không còn khuynh hướng phạm tội, vì mầm sống của Ngài ở trong người ấy; người ấy không thể cứ phạm tội vì đã được Ðức Chúa Trời sinh ra. 10 Bởi điều này con cái Ðức Chúa Trời và con cái Ác Quỷ được phân biệt rõ ràng: ai không làm điều công chính là không thuộc về Ðức Chúa Trời, và ai không yêu thương anh chị em mình cũng vậy.

Yêu Thương Lẫn Nhau

11 Ðây là sứ điệp anh chị em đã nghe từ ban đầu: chúng ta phải yêu thương nhau. 12 Chớ như Ca-in là người thuộc về kẻ ác và đã giết em mình. Vì cớ gì ông ấy đã giết em ông? Vì những việc làm của ông là gian ác, còn những việc làm của em ông là ngay lành.

13 Ðừng ngạc nhiên, thưa anh chị em, nếu thế gian ghét anh chị em. 14 Chúng ta biết rằng chúng ta đã vượt từ cõi chết mà vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh chị em mình. Ai không yêu thương thì còn ở trong cõi chết. 15 Ai ghét anh chị em mình là kẻ sát nhân. Anh chị em biết rằng không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong mình. 16 Bởi điều này chúng ta biết tình yêu: Ngài đã hy sinh mạng sống Ngài cho chúng ta; chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình cho anh chị em mình vậy.

17 Nếu ai có của cải ở đời này và thấy anh chị em mình lâm vào cảnh khốn cùng mà chặt dạ đối với người ấy, thì làm thể nào tình yêu của Ðức Chúa Trời ở trong người đó được? 18 Hỡi các con thơ, chúng ta đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng hãy bằng hành động cụ thể và sự chân thật.

An Tâm Trước Mặt Chúa

19 Qua điều này chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về chân lý và sẽ được an tâm trước mặt Ngài, 20 ngay cả khi lòng chúng ta cáo trách chúng ta; vì Ðức Chúa Trời vĩ đại hơn lòng chúng ta, và Ngài biết rõ mọi sự.

21 Anh chị em yêu dấu, nếu lòng chúng ta không cáo trách chúng ta, chúng ta được vững tâm trước mặt Ðức Chúa Trời. 22 Bất cứ điều gì chúng ta cầu xin, chúng ta nhận được từ Ngài, vì chúng ta vâng giữ các điều răn Ngài và làm những điều đẹp mắt Ngài.

23 Ðây là điều răn Ngài: chúng ta phải tin vào danh Con Ngài là Ðức Chúa Jesus Christ, và phải yêu thương nhau, như Ngài đã truyền cho chúng ta. 24 Ai vâng giữ các điều răn Ngài thì ở trong Ngài, và Ngài ở trong người ấy. Bởi điều này chúng ta biết Ngài đang ở trong chúng ta: nhờ Ðức Thánh Linh, Ðấng Ngài ban cho chúng ta.

Na-hum 2

Tiêu Diệt Thành Gian Ác

Một kẻ tàn sát đang tiến đến tấn công ngươi,[a]
Hãy phòng thủ chiến lũy của ngươi,
Hãy canh gác các con đường của ngươi,
Hãy nai nịt lưng ngươi sẵn sàng,
Hãy chuẩn bị mọi lực lượng của ngươi để đối phó.
Chúa sẽ tái lập thời hoàng kim của Gia-cốp và thời hoàng kim của I-sơ-ra-ên,
Mặc dù quân thù đã đến tàn phá xứ sở của họ và phá hoại các cây cối.

Khiên các dũng sĩ của nó màu đỏ,
Quân phục các chiến sĩ của nó màu tía.
Sườn kim loại các xe chiến mã của nó bóng láng trong ngày chúng sắp hàng ra trận,
Rừng gươm giáo của chúng đưa lên lắc lư vênh váo.
Các xe chiến mã của chúng chạy như điên trong các đường phố;
Chúng chạy tới chạy lui giữa các quảng trường;
Dáng của chúng tựa như những ngọn đuốc;
Chúng phóng nhanh như chớp.
Nó gọi các tướng tá của nó lại;
Chúng lảo đảo bước đến;
Chúng vội vàng chạy đến tường thành,
Ðể chuẩn bị cuộc phòng thủ.
Các cổng ngăn nước sông đều bị mở toang,
Cung điện bị sụp đổ tan tành.
Lệnh đã ban ra rằng dân thành ấy phải bị lưu đày;
Phụ nữ trong thành sẽ bị bắt đem đi đày biệt xứ;
Họ vừa đi vừa rên rỉ như bồ câu gù,
Họ đấm ngực đau thương.

Ni-ni-ve giống như hồ nước mà nước đã thoát ra hết.
“Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!” nhưng chẳng ai quay lại.
“Hãy xông vào cướp bạc!
Hãy xông vào lấy vàng!
Của cải nó nhiều vô kể!
Bửu vật của nó nhiều vô ngần!”
10 Thành bị tàn phá, tan hoang, và hủy diệt.
Lòng người tan chảy, các đầu gối rụng rời, mọi lưng run lật bật, mặt mày ai nấy đều tái mét.

11 Hang các sư tử ở đâu?
Nơi các sư tử con ăn thịt con mồi đâu rồi?
Ðâu rồi nơi sư tử đực, sư tử cái, và các sư tử con đến mà không sợ hãi gì?
12 Sư tử đực xé thịt con mồi cho các sư tử con, nó vật chết con mồi cho các sư tử cái;
Nó tha về hang đầy thịt các con mồi;
Nó chứa trong hang đầy thịt mồi bị vồ xé.

13 “Này, Ta chống lại ngươi,” Chúa các đạo quân phán,
“Ta sẽ thiêu các xe chiến mã của ngươi ra khói;
Gươm đao sẽ tàn sát các sư tử con của ngươi.
Ta sẽ chấm dứt việc ngươi đem mồi khắp xứ về hang;
Tiếng các sứ giả của ngươi sẽ không còn được ai nghe đến nữa.”

Lu-ca 18

Góa Phụ và Quan Án Bất Công

18 Bấy giờ Ngài kể cho họ một ngụ ngôn để dạy họ phải cầu nguyện luôn và đừng nản chí. Ngài nói, “Trong thành kia có một quan tòa không kính sợ Ðức Chúa Trời và cũng không vị nể người nào. Trong thành đó cũng có một góa phụ. Bà đó cứ đến kêu nài với quan tòa, ‘Xin ngài thực thi công lý cho tôi đối với kẻ nghịch tôi.’ Quan tòa ấy từ chối đã lâu, nhưng cuối cùng ông tự nhủ, ‘Dù ta không kính sợ Ðức Chúa Trời và không vị nể người nào, nhưng vì bà góa này cứ đến quấy rầy ta, ta phải thực thi công lý cho bà ấy, kẻo bà ấy cứ đến mãi, làm mệt mỏi ta.’”

Ðoạn Chúa nói tiếp, “Hãy nghe những lời quan tòa bất công ấy nói. Vậy lẽ nào Ðức Chúa Trời không thực thi công lý cho những người được chọn, những người ngày đêm kêu cầu Ngài, mà chậm trễ cứu giúp họ sao? Ta nói với các ngươi: Ngài sẽ vội vàng thực thi công lý cho họ. Tuy nhiên khi Con Người đến, liệu Con Người sẽ thấy đức tin còn trên mặt đất chăng?”

Người Pha-ri-si và Người Thu Thuế

Ngài cũng kể ngụ ngôn này để dạy những người cậy mình, cho mình là công chính, mà khinh chê người khác.

10 “Hai người đi lên đền thờ để cầu nguyện; một người là người Pha-ri-si, còn người kia là người thu thuế. 11 Người Pha-ri-si đứng riêng ra và cầu nguyện thế này, ‘Lạy Ðức Chúa Trời, con tạ ơn Ngài, vì con không như những người khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như người thu thuế này. 12 Con kiêng ăn mỗi tuần hai lần, và con dâng một phần mười mọi lợi tức của con.’

13 Còn người thu thuế đứng đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng, ‘Lạy Ðức Chúa Trời, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi.’

14 Ta nói với các ngươi, người thu thuế này, khi đi xuống để về nhà mình, đã được xưng công chính chứ không phải người kia, vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Chúa và Trẻ Thơ

(Mat 19:13-15; Mác 10:13-16)

15 Bấy giờ người ta đem các trẻ thơ đến Ngài để Ngài đặt tay trên chúng, nhưng khi các môn đồ thấy vậy, họ quở trách những người ấy. 16 Nhưng Ðức Chúa Jesus gọi họ lại và nói, “Hãy để các trẻ thơ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng, vì vương quốc Ðức Chúa Trời thuộc về những người như các trẻ thơ này. 17 Quả thật, Ta nói với các ngươi, người nào không tiếp nhận vương quốc Ðức Chúa Trời như một trẻ thơ thì không cách nào vào đó được.”

Một Vị Quan Giàu Có

(Mat 19:16-30; Mác 10:17-31)

18 Một vị quan kia hỏi Ngài rằng, “Thưa Thầy thiện hảo, tôi phải làm gì để hưởng sự sống đời đời?”

19 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Tại sao ngươi gọi Ta là thiện hảo? Chẳng có ai thiện hảo ngoại trừ một mình Ðức Chúa Trời. 20 Ngươi biết các điều răn này:

‘Ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
Ngươi chớ sát nhân.
Ngươi chớ trộm cắp.
Ngươi chớ làm chứng dối.
Ngươi hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.’” Xuất 20:12-16; Phục 5:16-20

21 Người ấy đáp, “Tôi đã giữ tất cả những điều đó từ khi còn trẻ.”

22 Khi Ðức Chúa Jesus nghe thế, Ngài nói với ông, “Ngươi còn thiếu một điều: hãy bán tất cả những gì ngươi có, đem tiền phân phát cho người nghèo, để ngươi có kho báu trên trời, rồi hãy đến, theo Ta.” 23 Khi ông nghe thế, ông trở nên rất buồn, vì ông rất giàu.

24 Khi Ðức Chúa Jesus thấy ông rất buồn, Ngài nói, “Người giàu vào vương quốc Ðức Chúa Trời thật khó thay! 25 Vì con lạc đà chui qua lỗ cây kim may còn dễ hơn người giàu vào vương quốc Ðức Chúa Trời.”

26 Những người ở đó nghe thế bèn nói, “Nếu vậy thì ai có thể được cứu?”

27 Ngài đáp, “Những gì không thể làm được đối với loài người đều có thể làm được đối với Ðức Chúa Trời.”

28 Phi-rơ nói, “Thầy xem, chúng con đã bỏ tất cả để theo Thầy.”

29 Ngài đáp, “Quả thật, Ta nói với các ngươi, không ai rời nhà, xa vợ, lìa anh em hoặc cha mẹ hoặc con cái vì vương quốc Ðức Chúa Trời 30 mà sẽ không nhận lại bội phần hơn trong đời này và sự sống đời đời trong đời sau.”

Chúa Báo Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài

(lần thứ ba)

(Mat 20:17-19; Mác 10:32-34)

31 Sau đó Ngài đem mười hai sứ đồ riêng ra và nói với họ, “Này, chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các tiên tri đã viết về Con Người sẽ được ứng nghiệm. 32 Vì Con Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, và sẽ bị nhạo báng, làm nhục, và phỉ nhổ. 33 Sau khi đánh đòn Người, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” 34 Tuy nhiên họ chẳng hiểu những điều ấy; ý nghĩa những lời ấy đã bị che khuất đối với họ, và họ không nhận biết được những điều Ngài nói.

Chúa Chữa Lành Người Mù

(Mat 20:29-34; Mác 10:46-52)

35 Khi Ngài đến gần Thành Giê-ri-cô, ở đó có một người mù ngồi bên lề đường ăn xin. 36 Nghe tiếng đám đông đi qua, ông hỏi có chuyện gì xảy ra. 37 Họ nói với ông rằng Ðức Chúa Jesus người Na-xa-rét sắp đi ngang qua đây.

38 Ông kêu to rằng, “Lạy Ðức Chúa Jesus, Con Vua Ða-vít, xin thương xót con!” 39 Những người đi trước đám đông rầy la ông, bảo ông im, nhưng ông càng gào to hơn, “Lạy Con Vua Ða-vít, xin thương xót con!”

40 Ðức Chúa Jesus đứng lại và truyền đem ông đến với Ngài; khi ông đến gần, Ngài hỏi ông, 41 “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?”

Ông đáp, “Lạy Chúa, xin cho con được thấy trở lại.”

42 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Hãy thấy trở lại; đức tin của ngươi đã làm cho ngươi được chữa lành.” 43 Ngay lập tức ông thấy được. Ông đi theo Ngài và tôn vinh Ðức Chúa Trời, và mọi người trong đoàn dân thấy vậy đều ca ngợi Ðức Chúa Trời.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang