M’Cheyne Bible Reading Plan
Dòng Dõi Y-sa-ca
7 Các con trai của Y-sa-ca là:
Thô-la, Phu-a, Gia-súp và Sim-rôn, bốn người.
2 Các con trai của Thô-la:
U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam và Sa-mu-ên. Họ đều là trưởng tộc trong dòng họ Thô-la và là những chiến sĩ hùng dũng trong gia phả; vào thời vua Đa-vít số chiến sĩ được ghi trong gia phả là 22,600 người.
3 Con trai của U-xi là:
Dít-ra-hia;
các con trai của Dít-ra-hia là
Mi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên và Di-si-gia, cả năm người đều là trưởng tộc. 4 Theo gia phả của gia đình, họ có 36,000 quân vì họ có nhiều vợ và con.
5 Những người chiến sĩ cùng họ hàng thuộc bộ tộc Y-sa-ca tất cả là 87,000 người.
Dòng Dõi Bên-gia-min
6 Ba con trai của Bên-gia-min là:
Bê-la, Bê-ka và Giê-đi-a-ên.
7 Các con trai của Bê-la:
Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt và Y-ri; năm người đều là trưởng tộc. Họ có 22,034 chiến sĩ được ghi trong gia phả.
8 Các con trai của Bê-ka là:
Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt và A-lê-mết; tất cả đều là con Bê-ka. 9 Họ là những trưởng tộc được ghi trong gia phả; có 20,200 chiến sĩ.
10 Con trai của Giê-đi-a-ên là:
Binh-han;
các con trai của Binh-han là:
Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-nia, Xê-than, Ta-rê-xi và A-hi-sa-ha. 11 Những người này là con cháu của Giê-đi-a-ên, đều là trưởng tộc, và số chiến sĩ sẵn sàng ra trận là 17,200 người.
12 Cũng có Súp-bim và Hốp-bim là con trai của Y-rơ và Hu-sim, con trai của A-he.
Dòng Dõi Nép-ta-li
13 Các con trai của Nép-ta-li:
Gia-si-ên, Gu-ni, Giê-se và Sa-lum; chúng đều là con của bà Bi-la.
Dòng Dõi Ma-na-se
14 Con cháu Ma-na-se là:
Ách-ri-ên do cô hầu người A-ram sinh; người cũng sinh Ma-ki, là tổ phụ của Ga-la-át. 15 Ma-ki cưới vợ cho Hốp-bim và Súp-bim; tên của em gái người là Ma-a-ca, tên của người con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát chỉ có con gái.
16 Ma-a-ca, vợ của Ma-ki sinh một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; em người là Sê-rết. Sê-rết sinh U-lam và Ra-kem.
17 Con trai của U-lam là:
Bê-đan;
Những người này là con cháu của Ga-la-át, Ma-ki và Ma-na-se. 18 Em gái của người là Ha-mô-lê-kết sinh Y-sốt, A-bi-ê-se và Mác-la.
19 Các con trai của Sê-mi-đa là:
A-hi-an, Sê-kem, Li-khi và A-ni-am.
Dòng Dõi Ép-ra-im
20 Con trai của Ép-ra-im là:
Su-tê-la; con Su-tê-la là Bê-re,
con của Bê-re là Ta-hát, con của Ta-hát là Ê-lê-a-đa,
con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát. 21 Con trai của Ta-hát là Xa-bát,
các con trai của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe và Ê-lê-át.
Hai người sau bị những người bản xứ Gát giết vì chúng nó xuống cướp súc vật của họ. 22 Ép-ra-im, cha chúng nó khóc thương chúng nó nhiều ngày; các anh em người đến an ủi người. 23 Người ăn ở với vợ, bà mang thai và sinh một đứa con trai; người đặt tên là Bê-ri-a vì nhà người bị tai họa. 24 Con gái người là Sê-ê-ra, nàng xây dựng Bết Hê-rôn Hạ và Bết Hê-rôn Thượng cùng với U-xên Sê-ê-ra.
25 Người cũng sinh Rê-pha;
Rê-pha sinh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sinh Ta-han;
26 Ta-han sinh La-đan, La-đan sinh Am-mi-hút;
Am-mi-hút sinh Ê-li-sa-ma; 27 Ê-li-a-ma sinh Nun,
Nun sinh Giô-suê.
28 Sản nghiệp và những nơi định cư của họ là Bê-tên và các làng; về phía đông là Na-a-ran và phía tây là Ghê-xe và các làng; Si-chem và các làng của nó cho đến Ga-xa và các làng của nó. 29 Dọc theo ranh giới của Ma-na-se là Bết-sê-an và các làng, Ta-nác và các làng, Mê-ghi-đô và các làng, Đô-rơ và các làng nó. Con cháu Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên sống tại những nơi này.
Dòng Dõi A-se
30 Các con trai của A-se:
Dim-na, Dích-va, Dích-vi, Bê-ri-a. Em gái của chúng là Sê-ra.
31 Các con trai của Bê-ri-a là:
Hê-be và Manh-ki-ên, người này là tổ của Biếc-xa-vít.
32 Hê-be là cha của Giáp-phơ-lết, Sô-mê, Hô-tham. Em gái của chúng là Su-a.
33 Các con trai của Giáp-phơ-lết là:
Pha-sác, Bim-hanh và A-vát.
Đó là các con trai của Giáp-phơ-lết.
34 Các con trai của Sô-mê là:
A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba và A-ram.
35 Các con trai của Hê-lem, em người, là:
Xô-pha, Dim-na, Sê-lết và A-manh.
36 Các con trai của Xô-pha là:
Su-a, Hạt-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, 37 Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran và Bê-ê-ra.
38 Các con trai của Giê-the là:
Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra.
39 Các con trai của U-la là:
A-ra-a, Ha-ni-ên và Ri-xi-a.
40 Tất cả những người này là con cháu A-se, trưởng tộc, những người chọn lọc, các chiến sĩ can đảm và là những người lãnh đạo hàng đầu. Số người sẵn sàng chiến đấu được ghi trong gia phả là 26,000 người.
Dòng Dõi Bên-gia-min
8 Bên gia-min sinh Bê-la, con trưởng nam,
Ách-bên, con thứ nhì, Ạc-ra, thứ ba,
2 Nô-ha, thứ tư và Ra-pha, thứ năm.
3 Các con trai của Bê-la là:
Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, 4 A-bi-sua, Na-a-man, A-hô-a, 5 Ghê-ra, Sê-phu-phan và Hu-ram.
6 Đây là con cháu của Ê-hút; Những người này đều là trưởng tộc của những người sống ở Gê-ba; họ bị lưu đày sang xứ Ma-na-hát,
7 tức là Na-a-man, A-hi-gia và Ghê-ra; người đem họ đi và sinh U-xa và A-hi-hút. 8 Các con của Sa-ha-ra-im được sinh ra trong xứ Mô-áp sau khi người bỏ các vợ mình là Hu-sim và Ba-ra. 9 Các con trai do Hô-đe sinh là Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, 10 Giê-út, Sô-kia và Mít-ma. Đây là các con trai người và là trưởng tộc. 11 Người cũng có con trai do bà Hu-sim sinh: A-bi-túp và Ên-ba-anh.
12 Các con trai của Ên-ba-anh là:
Ê-be, Mi-sê-am và Sê-mết; người xây thành Ô-nô và Lót cùng các làng nó, 13 Bê-ri-a và Sê-ma; họ là trưởng tộc của những người sống ở A-gia-lôn và đã đánh đuổi dân thành Gát.
14 Các con trai của Bê-ri-a là:
A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt, 15 Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, 16 Mi-ca-ên, Dít-pha và Giô-ha.
17 Các con trai của Ên-ba-anh là:
Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, 18 Gít-mê-rai, Gít-lia và Giô-báp.
19 Các con trai của Si-mê-i là:
Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, 20 Ê-li-ê-nai, Xi-lê-thai, Ê-li-ên, 21 A-đa-gia, Bê-ra-gia và Sim-rát.
22 Các con trai của Sa-sác là:
Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, 23 Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan, 24 Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, 25 Gíp-đê-gia và Phê-nu-ên.
26 Các con trai của Giê-rô-ham là:
Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-li, 27 Gia-rê-sia, Ê-li-gia và Xiếc-ri.
28 Đây là các trưởng tộc theo gia phả, những thủ lãnh; họ sống tại Giê-ru-sa-lem.
29 Cha của Ga-ba-ôn sống tại Ga-ba-ôn; vợ người tên là Ma-a-ca. 30 Con trưởng nam của người là Áp-đôn, rồi đến Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, 31 Ghê-đô, A-hi-ô, Xê-ke, 32 và Mích-lô, người này sinh Si-mê-a. Họ sống gần và đối diện với họ hàng mình tại Giê-ru-sa-lem.
33 Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và Ếch-ba-anh.
34 Con trai của Giô-na-than là:
Mê-ri-ba-anh; Mê-ri-ba-anh sinh Mi-ca.
35 Các con trai của Mi-ca là:
Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha.
36 A-cha sinh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sinh A-lê-mết, Át-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; 37 Một-sa sinh Bi-nê-a; con trai của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sinh Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa sinh A-xên.
38 A-xên có sáu con trai là:
A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan. Tất cả những người này đều là con của A-xên.
39 Các con trai của Ê-sết, anh em của A-xên, là:
U-lam, con trưởng nam, Giê-úc, thứ nhì, và Ê-li-phê-lết, thứ ba. 40 Các con trai của U-lam đều là những chiến sĩ can đảm, giỏi về cung tên; chúng có đông con cháu, tất cả là 150 người.
Tất cả những người này là con cháu của Bên-gia-min.
Sức Mạnh Của Đức Tin
11 Đức tin là thực chất của những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những việc ta không xem thấy. 2 Nhờ đức tin mà người xưa được lời chứng tốt.
3 Bởi đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ được hình thành bởi Lời Đức Chúa Trời; do đó những vật hữu hình ra từ những sự vô hình.[a]
4 Bởi đức tin, A-bên đã dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế tốt hơn lễ vật của Ca-in. Nhờ đó, ông được chứng nhận là người công chính khi Đức Chúa Trời chấp nhận các lễ vật của ông; nhờ đó, dù chết rồi ông vẫn còn nói.
5 Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên, không phải thấy sự chết, người ta không tìm thấy ông đâu cả vì Đức Chúa Trời đã cất ông lên. Trước khi được cất lên, ông đã được chứng nhận là người đẹp lòng Đức Chúa Trời; 6 không có đức tin thì không thể nào đẹp lòng Đức Chúa Trời vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin Ngài hiện hữu và thưởng cho những ai hết lòng tìm kiếm Ngài.
7 Bởi đức tin, Nô-ê được cảnh cáo về những việc chưa thấy và ông thành kính đóng một chiếc tàu để cứu gia đình mình; nhờ đức tin đó, ông kết tội thế gian và trở thành người thừa kế sự công chính bởi đức tin.
8 Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi đi đến nơi mình sẽ nhận làm cơ nghiệp, ông ra đi dù chẳng biết mình đi đâu. 9 Bởi đức tin, ông cư ngụ như một ngoại kiều trong xứ Chúa đã hứa cho mình, sống trong các lều trại cũng như Y-sác và Gia-cốp, là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa ấy, 10 vì ông mong đợi một thành phố có nền móng do Đức Chúa Trời thiết kế và xây dựng.
11 Bởi đức tin, chính Sa-ra dù hiếm muộn và tuổi đã quá cao vẫn nhận được năng lực thụ thai vì bà cho rằng Đấng đã hứa cũng giữ đúng lời hứa. 12 Vì thế, chỉ một người coi như đã chết, lại sinh ra con cháu đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được.
13 Tất cả những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận được những điều Chúa hứa, chỉ trông thấy và chào mừng những điều ấy từ đàng xa, nhìn nhận mình là người xa lạ và lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như thế bày tỏ rằng họ đang tìm kiếm một quê hương. 15 Nếu còn nhớ đến quê cũ là nơi họ đã ra đi, tất họ cũng có cơ hội trở về. 16 Trái lại, họ mong ước một quê hương tốt hơn, là quê hương ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn khi được gọi là Đức Chúa Trời của họ vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành phố.
17 Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng hiến Y-sác làm sinh tế khi bị Chúa thử nghiệm. Ông sẵn sàng dâng hiến con một của mình, dù đứa con đó chính là lời hứa ông đã nhận. Vì Đức Chúa Trời 18 đã phán bảo ông: “Từ Y-sác, con sẽ có một dòng dõi mang tên con.” 19 Vì kể rằng Đức Chúa Trời có khả năng khiến kẻ chết sống lại, nên theo nghĩa bóng Áp-ra-ham đã nhận lại con mình từ cõi chết.
20 Bởi đức tin, Y-sác chúc phước cho Gia-cốp và Ê-sau về những việc tương lai.
21 Bởi đức tin, Gia-cốp chúc phước cho mỗi con trai của Giô-sép lúc gần qua đời và dựa trên gậy mình mà thờ lạy.
22 Bởi đức tin, Giô-sép nói trước về việc con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ xuất hành và ra chỉ thị về hài cốt mình lúc sắp qua đời.
23 Bởi đức tin, Môi-se khi mới sinh, được cha mẹ che giấu đi ba tháng vì thấy con kháu khỉnh, không sợ cấm lệnh của vua.
24 Bởi đức tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, từ khước tước vị con trai công chúa Pha-ra-ôn, 25 thà chịu bạc đãi với con dân Đức Chúa Trời trong một thời gian còn hơn thụ hưởng khoái lạc tội lỗi. 26 Ông coi sỉ nhục vì Chúa Cứu Thế là quý hơn châu báu Ai-cập vì ông trông đợi được tưởng thưởng. 27 Bởi đức tin, ông rời Ai-cập, không sợ vua giận, vì ông kiên trì như thấy Đấng không ai thấy được. 28 Bởi đức tin, ông cử hành lễ vượt qua và sự rảy huyết để kẻ hủy diệt không hại đến các con đầu lòng của dân mình.
29 Bởi đức tin, dân Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ như đi trên đất khô cạn, còn người Ai-cập thử đi qua lại bị nước biển chôn vùi.
30 Bởi đức tin, các tường lũy Giê-ri-cô sụp đổ sau khi dân Chúa đi vòng quanh bảy ngày.
31 Bởi đức tin, kỵ nữ Ra-háp không chết với những kẻ vô tín, vì nàng đã tiếp đón các người do thám với lòng hòa hiếu.
32 Tôi còn nói gì nữa? Nếu kể chuyện Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các tiên tri của Chúa thì không đủ thì giờ. 33 Nhờ đức tin, họ đã chiến thắng các vương quốc, thi hành công lý, được các lời hứa, bịt miệng sư tử, 34 tắt đám lửa hừng, thoát khỏi lưỡi gươm, đang yếu đuối trở nên mạnh mẽ, biến thành dũng sĩ trong cuộc chiến tranh, đánh tan quân đội ngoại quốc. 35 Có những phụ nữ nhận được người nhà đã chết rồi sống lại; có những người chịu tra tấn mà không muốn được giải cứu để được sự sống lại tốt hơn. 36 Những kẻ khác chịu đựng sỉ nhục, đòn vọt, những người kia chịu xiềng xích, lao tù. 37 Họ bị ném đá, cám dỗ, cưa làm đôi, chém chết bằng gươm, họ lưu lạc, mặc áo bằng da cừu, da dê, chịu túng ngặt, bị bắt bớ và bạc đãi đủ điều. 38 Thế gian không xứng đáng cho họ sống, họ phiêu lưu giữa sa mạc, trên núi thẳm, trong hang động và hầm hố dưới đất.
39 Nhờ đức tin tất cả những người ấy đều được chứng nhận nhưng vẫn chưa nhận lãnh điều Chúa hứa. 40 Nhưng Đức Chúa Trời đã tiên liệu điều tốt lành hơn cho chúng ta, hầu cho ngoài chúng ta, họ không thể nào được toàn hảo.
Bài Ai Ca Về Dân Y-sơ-ra-ên
5 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe lời này, lời ca ai oán ta cất tiếng hát về ngươi:
2 Trinh nữ Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống,
Không hề trỗi dậy nữa!
Nàng nằm trơ trọi trên đất mình,
Không ai nâng nàng dậy.
3 Vì đây là lời CHÚA phán về dân Y-sơ-ra-ên:
“Thành nào cho ra trận một ngàn quân,
Chỉ còn một trăm người trở về.
Thành nào cho ra trận một trăm quân,
Chỉ còn mười người trở về.”
Kêu Gọi Ăn Năn
4 Vì đây là lời CHÚA phán với dân Y-sơ-ra-ên;
“Hãy tìm kiếm Ta, thì các ngươi sẽ sống!
5 Chớ tìm kiếm Bê-tên,
Chớ xuống Ghinh-ganh,
Chớ vượt biên xuống Bê-e-sê-ba,
Vì Ghinh-ganh sẽ bị lưu đầy,
Và Bê-tên sẽ đổ nát.”
6 Hãy tìm kiếm CHÚA, thì các ngươi sẽ sống!
Kẻo Ngài giáng xuống như lửa giữa nhà Giô-sép,
Thiêu nuốt Bê-tên.
Không ai dập tắt nổi.
7 Các ngươi đổi công lý ra ngải cứu,
Ném bỏ sự chính trực xuống đất.
8 Ngài dựng nên chòm sao Thất Tinh và sao Cày,
Đổi bóng tối ra ban mai,
Khiến ban ngày tối sầm thành đêm.
Ngài gọi nước biển lại,
Trút xuống mặt đất,
Danh Ngài là CHÚA!
9 Trong chớp nhoáng, Ngài hủy diệt những người cường bạo,
Hủy diệt các chiến lũy kiên cố.
10 Các ngươi ghét người xét xử nơi cổng thành,
Ghê tởm người trình bày chân thật.
11 Vì các ngươi chà đạp người nghèo,
Bắt họ nộp lúa,
Cho nên, các ngươi xây nhà bằng đá đẽo,
Nhưng các ngươi không được ở trong đó.
Các ngươi trồng vườn nho tươi tốt,
Nhưng các ngươi không được uống rượu từ vườn mình.
12 Vì Ta biết vi phạm các ngươi nhiều vô vàn,
Tội lỗi các ngươi nhiều vô số.
Các ngươi hiếp đáp người chính trực, nhận của hối lộ,
Bẻ cong lý lẽ người khốn cùng nơi cổng thành.
13 Trong thời như vậy, người cẩn trọng im lặng,
Vì là thời kỳ gian ác.
14 Hãy tìm kiếm điều thiện, chớ theo đuổi điều ác,
Để các ngươi được sống.
Bấy giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,
Sẽ thật sự ở với các ngươi, như các ngươi thường nói.
15 Hãy ghét bỏ điều ác, yêu chuộng điều thiện,
Xét xử công minh tại cổng thành.
Biết đâu CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,
Sẽ thương xót những người còn sống sót trong con cháu Giô-sép.
Bài Ai Ca Về Dân Y-sơ-ra-ên
16 Vì thế cho nên CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân, Chúa tôi, phán:
“Có tiếng khóc than ở mọi quảng trường,
Ở mọi phố phường người người than vãn: ‘Than ôi! Than ôi!’
Chúng kêu gọi các nông dân khóc lóc,
Kêu người khóc mướn đến khóc than.
17 Có tiếng khóc than trong mọi vườn nho nữa,
Khi Ta đi ngang qua giữa các ngươi,”
CHÚA phán vậy.
Ngày Của CHÚA
18 “Khốn cho các ngươi là người mong đợi
Ngày của CHÚA!
Ngày của CHÚA giúp ích gì cho các ngươi?
Đó là ngày đen tối, chứ không phải tươi sáng!
19 Giống như người kia chạy thoát khỏi sư tử,
Lại bị gấu tấn công!
Hoặc về đến nhà,
Dựa tay lên vách,
Lại bị rắn cắn!
20 Phải chăng ngày của CHÚA là ngày đen tối, chớ không tươi sáng,
Ngày tối tăm mù mịt, không một tia sáng?
Kết Án Sự Thờ Phượng Bề Ngoài
21 Ta ghét, Ta khinh các ngày lễ của các ngươi,
Ta không đẹp lòng các buổi nhóm họp trọng thể.
22 Ngay khi các ngươi dâng cho Ta tế lễ thiêu và tế lễ chay,
Ta cũng không nhận.
Ta chẳng màng đến
Các sinh tế béo tốt.
23 Hãy cất xa khỏi Ta tiếng ca hát ồn ào,
Ta chẳng muốn nghe tiếng đàn hạc của các ngươi!
24 Nhưng hãy để cho công lý trào lên như nước,
Sự công chính như dòng sông không hề cạn!
25 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi có dâng cho Ta sinh tế và ngũ cốc,
Suốt bốn mươi năm trong sa mạc không?
26 Các ngươi đã khiêng theo mình Si-cút,
Vua các ngươi,
Và Ki-đôn là những hình tượng các ngươi làm theo các vì sao,
Thần các ngươi.
27 Vì vậy Ta sẽ đày các ngươi ra mãi tận bên kia thành Đa-mách,”
CHÚA phán. Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân!
Thưa Ngài Thê-ô-phi-lơ:
1 Nhiều người đã dụng công[a] ký thuật các sự việc đã hoàn thành giữa vòng chúng tôi, 2 theo những người chứng kiến và những người phụng sự[b] Lời Chúa từ ban đầu đã truyền lại cho chúng tôi. 3 Vì thế, sau khi cẩn trọng tra cứu chính xác mọi việc từ ban đầu, tôi thiết nghĩ nên theo thứ tự viết cho ngài, 4 để ngài biết chắc chắn những lời giáo huấn[c] ngài đã học[d] là chân xác.
Báo Tin Giăng Báp-tít Ra Đời
5 Vào thời Hê-rốt, vua chư hầu Giu-đê, có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri, thuộc ban A-bi-gia và Ê-li-sa-bét, vợ ông, cũng là dòng dõi của A-rôn. 6 Cả hai ông bà là người công chính[e] dưới[f] mắt Đức Chúa Trời, vâng giữ trọn vẹn các điều răn và giới luật của Chúa. 7 Hai vợ chồng không có con vì bà[g] hiếm muộn mà tuổi ông bà cũng đã cao.
8 Khi đến phiên phân ban mình dâng lễ trước mặt Đức Chúa Trời, 9 theo tục lệ của các thầy tế lễ, Xa-cha-ri bắt thăm trúng phần dâng hương trong đền thờ Chúa. 10 Đang khi tất cả dân chúng nhóm họp bên ngoài cầu nguyện, trong giờ dâng hương, 11 một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn thờ dâng hương. 12 Thấy thiên sứ, Xa-cha-ri bối rối sợ hãi. 13 Nhưng thiên sứ bảo: “Xa-cha-ri, đừng sợ! Lời khẩn cầu của ông đã được nhậm. Ê-li-sa-bét, vợ ông, sẽ sinh cho ông một trai, hãy đặt tên là Giăng. 14 Ông sẽ vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng sẽ hân hoan vì nó ra đời. 15 Con trẻ sẽ được tôn trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu nho hay rượu mạnh, và sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ. 16 Giăng sẽ đưa nhiều người Y-sơ-ra-ên quay về với Chúa, là Đức Chúa Trời của họ, 17 sẽ đi trước mặt Chúa với tinh thần[h] và quyền năng của Ê-li, để đổi lòng cha quay về với con cái, hướng kẻ không vâng phục đến sự khôn ngoan của sự công chính, và để chuẩn bị một dân tộc sẵn sàng cho Chúa.”
18 Xa-cha-ri nói với thiên sứ: “Làm sao tôi biết sẽ có việc này? Vì tôi đã già và vợ tôi cũng đã cao tuổi!”
19 Thiên sứ đáp: “Tôi chính là Gáp-ri-ên, thần hằng đứng chầu trước mặt Đức Chúa Trời.[i] Tôi được sai đến nói chuyện và báo tin mừng này cho ông. 20 Này, ông sẽ bị câm, không nói được cho đến ngày nào những việc này xảy ra, vì ông không tin lời tôi là lời sẽ ứng nghiệm đúng kỳ.”
21 Dân chúng đang chờ đợi Xa-cha-ri, ngạc nhiên không hiểu tại sao ông ở quá lâu trong thánh điện. 22 Khi Xa-cha-ri ra, ông không nói được gì với họ, nên họ biết ông vừa thấy một khải tượng trong thánh điện. Ông ra dấu cho họ hiểu chứ không nói được.
23 Mãn phiên phụng vụ, ông trở về nhà. 24 Sau đó, Ê-li-sa-bét, vợ ông thụ thai, ở ẩn năm tháng, 25 bà nói rằng: “Chúa đã ưu đãi tôi, trong những ngày Ngài đoái thương tôi và cất bỏ điều nhục nhã tôi giữa thiên hạ.”
Báo Trước Sự Giáng Sinh Của Chúa Giê-su
26 Vào tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, thuộc miền Ga-li-lê, 27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên Giô-sép, thuộc gia tộc Đa-vít; trinh nữ này tên Ma-ri. 28 Vào gặp Ma-ri, thiên sứ nói: “Xin chúc mừng cô, người được hồng phúc, Chúa ở cùng cô!”
29 Nghe lời chào ấy, Ma-ri rất bối rối, ngẫm nghĩ xem lời chào đó có nghĩa gì. 30 Nhưng thiên sứ tiếp: “Ma-ri, đừng sợ! Vì cô được Đức Chúa Trời ban ân sủng.[j] 31 Này, cô sẽ thụ thai và sinh một trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người con trai đó sẽ nên cao trọng và sẽ được xưng[k] là Con Đấng Chí Cao. Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi vua Đa-vít, tổ phụ Ngài. 33 Ngài sẽ trị vì nhà Gia-cốp đời đời; nước Ngài sẽ không bao giờ chấm dứt.”
34 Ma-ri hỏi: “Tôi còn là trinh nữ, làm sao có việc đó?”[l]
35 Thiên sứ đáp: “Thánh Linh sẽ giáng trên cô, quyền năng của Đấng Chí Cao sẽ bao phủ cô, cho nên Con Thánh sinh ra sẽ được xưng là Con Đức Chúa Trời. 36 Kìa, Ê-li-sa-bét, người họ hàng với cô dù trong tuổi già nua, cũng thụ thai đã sáu tháng rồi. Bà này có tiếng là hiếm hoi. 37 Vì không có điều[m] gì Đức Chúa Trời không làm được!”
38 Ma-ri nói: “Vâng, con là đầy tớ Chúa, nguyện việc đó xảy đến cho con như lời ông nói!” Rồi thiên sứ rời khỏi Ma-ri.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)