M’Cheyne Bible Reading Plan
Dòng Dõi của Ru-bên
5 Sau đây là các con của Ru-bên con đầu lòng của I-sơ-ra-ên. (Ru-bên tuy là con đầu lòng, nhưng vì ông đã làm ô nhục giường của cha ông, nên quyền trưởng tử của ông đã được ban cho các con của Giô-sép con trai của I-sơ-ra-ên. Ru-bên đã không được ghi vào gia phả theo thông lệ của người có quyền trưởng tử. 2 Ngoài ra Giu-đa đã trở nên nổi bật giữa vòng anh em của ông, và một người lãnh đạo đã ra từ dòng dõi của ông, dù vậy quyền trưởng tử vẫn thuộc về Giô-sép.) 3 Các con của Ru-bên con đầu lòng của I-sơ-ra-ên là Ha-nóc, Panh-lu, Hê-xơ-rôn, và Cạt-mi.
4 Các con của Giô-ên là Sê-ma-gia con của ông, Gót con của ông, Si-mê-i con của ông, 5 Mi-ca con của ông, Rê-a-gia con của ông, Ba-anh con của ông, 6 và Bê-ê-ra con của ông. Bê-ê-ra là người đã bị Tin-gát Pin-nê-se[a] vua A-sy-ri đem đi lưu đày; ông là thủ lãnh của chi tộc Ru-bên lúc bấy giờ.
7 Các anh em của ông được liệt kê trong gia phả theo từng thị tộc gồm: đứng đầu là Giê-i-ên, kế đến là Xa-cha-ri-a, 8 rồi Bê-la con của A-xa, con của Sê-ma, con của Giô-ên.
Chi tộc Ru-bên sống ở miền A-rô-ê chạy dài cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn. 9 Con cháu của ông cũng sống lan rộng về hướng đông đến giáp ranh với sa mạc phía bên này Sông Ơ-phơ-rát, bởi vì súc vật của họ sinh sản tăng nhiều trong vùng Ghi-lê-át. 10 Trong thời của Vua Sau-lơ họ đã có chiến tranh với dân Hắc-ri; dân ấy đã bị ngã gục dưới tay họ. Họ chiếm ngụ trong các lều trại của dân ấy khắp vùng phía đông của Ghi-lê-át.
Dòng Dõi của Gát
11 Các con của Gát sống đối ngang với họ trong đất Ba-san lan rộng đến Sa-lê-ca: 12 đứng đầu là Giô-ên, thứ nhì là Sa-pham, kế đến là Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.
13 Các anh em của ông được liệt kê theo từng thị tộc gồm: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xi-a, và Ê-be – bảy người cả thảy.
14 Ðây là các con của A-bi-ha-in con của Hu-ri, con của Gia-rô-a, con của Ghi-lê-át, con của Mi-ca-ên, con của Giê-si-sai, con của Gia-đô, con của Bu-xơ.
15 A-hi con của Áp-đi-ên, con của Gu-ni, là thủ lãnh của chi tộc Gát.
16 Họ sống trong miền Ghi-lê-át, trong xứ Ba-san, trong các thành của xứ đó, trong các đồng cỏ của miền Sa-rôn, và các miền tận cùng các ranh giới của các đồng cỏ đó.
17 Tất cả những người ấy đã đăng bộ theo từng gia phả trong thời của Giô-tham vua Giu-đa và trong thời của Giê-rô-bô-am vua I-sơ-ra-ên.
18 Chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã có những chiến sĩ dũng mãnh. Họ thông thạo việc sử dụng khiên và gươm, cung và tên, và họ thật lão luyện trong chiến trường. Họ có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng ra trận. 19 Họ đánh nhau với các dân Hắc-ri, Giê-tu, Na-phích, và Nô-đáp. 20 Họ nhận được sự giúp đỡ khi đối phó với quân thù. Dân Hắc-ri và tất cả các đồng minh của dân ấy đã bị trao vào tay họ, bởi vì khi lâm trận họ kêu cầu Ðức Chúa Trời. Ngài đã ban cho họ những gì họ cầu xin, vì họ tin cậy Ngài. 21 Họ bắt đi các bầy súc vật của các dân ấy: năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên, hai ngàn lừa, và một trăm ngàn tù binh. 22 Nhiều người đã tử trận, bởi vì cuộc chiến ấy thuộc về Ðức Chúa Trời. Họ đã sống trong lãnh thổ của các dân ấy cho đến khi bị lưu đày.
Nửa Chi Tộc Ma-na-se
23 Con cháu của phân nửa chi tộc Ma-na-se đã sống trong xứ. Họ rất đông và định cư từ miền Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-ni-rơ, và Núi Hẹt-môn.
24 Ðây là những thủ lãnh của các thị tộc của họ: Ê-phe, I-si, Ê-li-ên, A-xơ-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-vi-a, và Gia-đi-ên. Họ là những chiến sĩ dũng mãnh, những người danh tiếng, những người cầm đầu thị tộc của họ. 25 Tuy nhiên họ đã bất trung với Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ. Họ làm điếm bằng cách thờ lạy các thần của các dân trong xứ, những kẻ Ðức Chúa Trời đã tiêu diệt trước mặt họ. 26 Vì thế Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đã dấy động lòng của Pun vua A-sy-ri, tức lòng của Tin-gát Pin-nê-se vua A-sy-ri, và ông ấy đã bắt họ đem đi; đó là các chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se. Ông ấy đã mang họ đến lưu đày ở Ha-la, Ha-bơ, Ha-ra, và bên bờ Sông Gô-xan cho đến ngày nay.
Dòng Dõi của Lê-vi
6 Các con của Lê-vi là Ghẹt-sôm, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
2 Các con của Kê-hát là Am-ram, Ít-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
3 Các con của Am-ram là A-rôn, Môi-se, và Mi-ri-am.
Các con của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. 4 Ê-lê-a-xa sinh Phi-nê-a. Phi-nê-a sinh A-bi-sua. 5 A-bi-sua sinh Búc-ki. Búc-ki sinh U-xi. 6 U-xi sinh Xê-ra-hi-a. Xê-ra-hi-a sinh Mê-ra-giốt. 7 Mê-ra-giốt sinh A-ma-ri-a. A-ma-ri-a sinh A-hi-túp. 8 A-hi-túp sinh Xa-đốc. Xa-đốc sinh A-hi-ma-a. 9 A-hi-ma-a sinh A-xa-ri-a. A-xa-ri-a sinh Giô-ha-nan. 10 Giô-ha-nan sinh A-xa-ri-a, người làm tư tế trong đền thờ do Sa-lô-môn xây ở Giê-ru-sa-lem. 11 A-xa-ri-a sinh A-ma-ri-a. A-ma-ri-a sinh A-hi-túp. 12 A-hi-túp sinh Xa-đốc. Xa-đốc sinh Sanh-lum. 13 Sanh-lum sinh Hinh-ki-a. Hinh-ki-a sinh A-xa-ri-a. 14 A-xa-ri-a sinh Sê-ra-gia. Sê-ra-gia sinh Giê-hô-xa-đát.
15 Giê-hô-xa-đát bị đem đi lưu đày khi Chúa dùng tay Nê-bu-cát-nê-xa phạt dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem phải đi lưu đày.
16 Các con của Lê-vi là Ghẹt-sôm, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
17 Ðây là tên các con của Ghẹt-sôm: Líp-ni và Si-mê-i.
18 Các con của Kê-hát là Am-ram, Ít-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
19 Các con của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si.
Ðây là các thị tộc của chi tộc Lê-vi liệt kê theo tổ tiên của họ:
20 Con của Ghẹt-sôm là Líp-ni; con của Líp-ni là Gia-hát; con của Gia-hát là Xim-ma; 21 con của Xim-ma là Giô-a; con của Giô-a là I-đô; con của I-đô là Xê-ra; con của Xê-ra là Giê-a-thê-rai.
22 Con cháu của Kê-hát là Am-mi-na-đáp; con của Am-mi-na-đáp là Cô-ra; con của Cô-ra là Át-si; 23 con của Át-si là Ên-ca-na; con của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con của Ê-bi-a-sáp là Át-si; 24 con của Át-si là Ta-hát; con của Ta-hát là U-ri-ên; con của U-ri-ên là U-xi-a; con của U-xi-a là Sa-un.
25 Các con của Ên-ca-na là A-ma-sai và A-hi-mốt.
26 Về Ên-ca-na thì con cháu của Ên-ca-na là Xô-phai; con của Xô-phai là Na-hát; 27 con của Na-hát là Ê-li-áp; con của Ê-li-áp là Giê-rô-ham; con của Giê-rô-ham là Ên-ca-na.[b]
28 Các con của Sa-mu-ên là Giô-ên[c] con đầu lòng, A-bi-gia con thứ nhì.[d]
29 Con cháu của Mê-ra-ri là Ma-li; con của Ma-li là Líp-ni; con của Líp-ni là Si-mê-i; con của Si-mê-i là U-xa; 30 con của U-xa là Si-mê-a; con của Si-mê-a là Hắc-ghi-a; con của Hắc-ghi-a là A-sa-gia.
Những Người Ðặc Trách Thánh Nhạc Thời Ða-vít
31 Ðây là những người Ða-vít đã lập làm những người đặc trách việc ca hát thờ phượng trong nhà Chúa, sau khi Rương Giao Ước đã được rước vào an vị. 32 Họ phục vụ bằng sự ca ngợi trước Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, cho đến khi Sa-lô-môn xây dựng một Ðền Thờ cho Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Họ thi hành bổn phận của họ theo như quy luật đã định cho họ.
33 Ðây là những người đã phục vụ cùng với con cháu của họ:
Trong dòng dõi của Kê-hát có Hê-man làm ca đoàn trưởng, con của Giô-ên, con của Sa-mu-ên, 34 con của Ên-ca-na, con của Giê-rô-ham, con của Ê-li-ên, con của Tô-a, 35 con của Xu-phơ, con của Ên-ca-na, con của Ma-hát, con của A-ma-sai, 36 con của Ên-ca-na, con của Giô-ên, con của A-xa-ri-a, con của Xê-pha-ni-a, 37 con của Ta-hát, con của Át-si, con của A-bi-a-sáp, con của Cô-ra, 38 con của Ít-ha, con của Kê-hát, con của Lê-vi, con của I-sơ-ra-ên.
39 Em của ông là A-sáp, đứng bên phải ông. A-sáp là con của Bê-rê-ki-a, con của Si-mê-a, 40 con của Mi-chên, con của Ba-a-sê-gia, con của Manh-ki-gia, 41 con của Ết-ni, con của Xê-ra, con của A-đa-gia, 42 con của Ê-than, con của Xim-ma, con của Si-mê-i, 43 con của Gia-hát, con của Ghẹt-sôm, con của Lê-vi.
44 Ðứng bên trái của ông có những người trong dòng họ của ông, các con của Mê-ra-ri: Ê-than con của Ki-si, con của Áp-đi, con của Manh-lúc, 45 con của Ha-sa-bi-a, con của A-ma-xi-a, con của Hinh-ki-a, 46 con của Am-xi, con của Ba-ni, con của Sê-me, 47 con của Mác-li, con của Mu-si, con của Mê-ra-ri, con của Lê-vi.
48 Những người bà con của họ đều được trao trách nhiệm phục vụ mọi việc trong Ðền Tạm, tức nhà của Ðức Chúa Trời.
49 Nhưng A-rôn và con cháu của ông thì chuyên lo việc dâng hiến nơi bàn thờ dâng của lễ thiêu và bàn thờ dâng hương, tức làm mọi công việc của Nơi Chí Thánh, để chuộc tội cho dân I-sơ-ra-ên, theo như mọi điều Môi-se tôi tớ của Ðức Chúa Trời đã truyền.
50 Ðây là con cháu của A-rôn: con của A-rôn là Ê-lê-a-xa; con của Ê-lê-a-xa là Phi-nê-a; con của Phi-nê-a là A-bi-sua; 51 con của A-bi-sua là Búc-ki; con của Búc-ki là U-xi; con của U-xi là Xê-ra-hi-a; 52 con của Xê-ra-hi-a là Mê-ra-giốt; con của Mê-ra-giốt là A-ma-ri-a; con của A-ma-ri-a là A-hi-túp; 53 con của A-hi-túp là Xa-đốc; con của Xa-đốc là A-hi-ma-a.
Những Nơi Ðịnh Cư của Chi Tộc Lê-vi
54 Ðây là những vùng định cư và các lãnh thổ đã được bốc thăm để chia cho chi tộc Lê-vi:
Ðối với các con cháu của A-rôn, các gia tộc của dòng họ Kê-hát (vì thăm trúng vào dòng họ của họ trước) 55 được người ta ban cho họ Hếp-rôn trong xứ Giu-đa và những đồng cỏ chung quanh thành, 56 nhưng ruộng rẫy thuộc về thành và các làng trực thuộc thành đều được ban cho Ca-lép con của Giê-phu-nê.
57 Người ta ban cho các con cháu của A-rôn các thành: Hếp-rôn (thành ẩn náu), Líp-na và các đồng cỏ của nó, Giát-tia, Ếch-tê-mô-a và các đồng cỏ của nó, 58 Hi-lên và các đồng cỏ của nó, Ðê-bi và các đồng cỏ của nó, 59 A-san và các đồng cỏ của nó, và Bết Sê-mếch và các đồng cỏ của nó. 60 Trong lãnh thổ của chi tộc Bên-gia-min: Ghê-ba và các đồng cỏ của nó, A-lê-mết và các đồng cỏ của nó, và A-na-thốt và các đồng cỏ của nó.
Tổng số các thành được ban cho các gia tộc trong dòng họ của họ là mười ba thành.
61 Ðối với các con cháu còn lại của dòng họ Kê-hát, người ta bắt thăm chia cho họ các thành trong lãnh thổ của các chi tộc; trong phân nửa chi tộc của Ma-na-se, họ được chia cho mười thành.
62 Ðối với các con cháu của Ghẹt-sôm theo từng thị tộc của họ, các chi tộc I-sa-ca, A-se, Náp-ta-li, và Ma-na-se ở Ba-san đã bắt thăm chia cho họ mười ba thành.
63 Ðối với các con cháu của Mê-ra-ri theo từng thị tộc của họ, các chi tộc Ru-bên, Gát, và Xê-bu-lun đã bắt thăm chia cho họ mười hai thành.
64 Như thế dân I-sơ-ra-ên đã chia cho người Lê-vi các thành và các đồng cỏ. 65 Các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min cũng đã bắt thăm chia cho họ các thành được kể ở trên.
66 Một số thị tộc trong vòng con cháu của Kê-hát được ban cho các thành và đất đai trong lãnh thổ của chi tộc Ép-ra-im. 67 Họ được ban cho các thành ẩn náu: Si-chem và các đồng cỏ của nó trong vùng cao nguyên Ép-ra-im, Ghê-xe và các đồng cỏ của nó, 68 Giốc-mê-am và các đồng cỏ của nó, Bết Hô-rôn và các đồng cỏ của nó, 69 A-gia-lôn và các đồng cỏ của nó, Gát Rim-môn và các đồng cỏ của nó. 70 Trong lãnh thổ của phân nửa chi tộc Ma-na-se: A-ne và các đồng cỏ của nó, Bi-lê-am và các đồng cỏ của nó được ban cho những người còn lại trong con cháu của Kê-hát.
71 Ðối với các con cháu của Ghẹt-sôm, trong lãnh thổ của phân nửa chi tộc Ma-na-se: Gô-lan ở Ba-san và các đồng cỏ của nó và Ách-ta-rốt và các đồng cỏ của nó; 72 trong lãnh thổ của chi tộc I-sa-ca: Kê-đét và các đồng cỏ của nó, Ða-bê-rát và các đồng cỏ của nó, 73 Ra-mốt và các đồng cỏ của nó, và A-nem và các đồng cỏ của nó; 74 trong lãnh thổ của chi tộc A-se: Ma-sanh và các đồng cỏ của nó, Áp-đôn và các đồng cỏ của nó, 75 Hu-cốc và các đồng cỏ của nó, và Rê-bốc và các đồng cỏ của nó; 76 trong lãnh thổ của chi tộc Náp-ta-li: Kê-đét ở Ga-li-lê và các đồng cỏ của nó, Ham-môn và các đồng cỏ của nó, và Ki-ri-át-ha-im và các đồng cỏ của nó.
77 Ðối với các con cháu còn lại của Mê-ra-ri, trong lãnh thổ của chi tộc Xê-bu-lun, người ta chia cho họ Rim-mô-nô và các đồng cỏ của nó, Ta-bô và các đồng cỏ của nó 78 ở bên kia Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, tức bên phía đông Sông Giô-đanh trong lãnh thổ của chi tộc Ru-bên, Bê-xe trong vùng đồng hoang và các đồng cỏ của nó, Gia-xa và các đồng cỏ của nó, 79 Kê-đê-mốt và các đồng cỏ của nó, và Mê-pha-át và các đồng cỏ của nó; 80 trong lãnh thổ của chi tộc Gát: Ra-mốt ở Ghi-lê-át và các đồng cỏ của nó, Ma-ha-na-im và các đồng cỏ của nó, 81 Hếch-bôn và các đồng cỏ của nó, và Gia-xe và các đồng cỏ của nó.
Dâng Thú Vật Hiến Tế theo Luật Pháp Không Còn Hiệu Lực
10 Thật vậy Luật Pháp chỉ là hình bóng của những điều tốt đẹp sắp đến, chứ không phải hình thể đích thực của những điều ấy, nên không bao giờ có thể làm cho những người đến gần được toàn hảo bằng các thú vật hiến tế dâng hiến liên tục từ năm này qua năm khác. 2 Vì nếu được, chẳng phải họ đã ngưng dâng thú vật hiến tế rồi sao, vì một khi những người thờ phượng được tẩy sạch một lần đủ cả, thì họ đâu còn mặc cảm tội lỗi gì nữa? 3 Tuy nhiên việc dâng các thú vật hiến tế đó vẫn tiếp tục duy trì, để nhắc nhở con người về tội lỗi mình từ năm này qua năm khác, 4 vì huyết của bò đực và dê đực không thể nào cất bỏ tội lỗi được.
5 Vì thế khi Ðấng Christ vào thế gian, Ngài nói,
“Chúa không muốn con vật hiến tế và lễ vật,
Nhưng Chúa đã chuẩn bị một thân thể cho con,
6 Của lễ toàn thiêu và của lễ chuộc tội,
Chúa đã chẳng vui lòng.
7 Bấy giờ con nói, ‘Lạy Ðức Chúa Trời, này, con đến –trong sách có viết về con– để thực hiện ý muốn của Ngài.’”
8 Như Ngài nói ở trên, “Chúa không muốn và không vui lòng về các thú vật hiến tế, lễ vật, của lễ toàn thiêu, và của lễ chuộc tội” được dâng hiến theo Luật Pháp quy định, 9 rồi Ngài lại nói, “Này, con đến để thực hiện ý muốn của Ngài.” Ngài bỏ điều trước để lập điều sau. 10 Thế thì theo ý muốn ấy, chúng ta được thánh hóa nhờ Ðức Chúa Jesus Christ dâng chính thân thể Ngài một lần đủ cả.
Chỉ Ðấng Christ Là Lễ Vật Hiến Tế Có Hiệu Lực
11 Mỗi tư tế đứng phục vụ từ ngày này qua ngày khác, dâng các thú vật hiến tế giống nhau, là những lễ vật không thể cất bỏ tội lỗi đi được. 12 Nhưng Ðấng Christ[a] thì chỉ dâng một lễ vật hiến tế để chuộc tội một lần đủ cả, rồi ngồi xuống bên phải Ðức Chúa Trời. 13 Từ đó trở đi Ngài đợi cho đến khi những kẻ thù của Ngài bị đặt làm bệ chân Ngài. 14 Vì chỉ dâng một lễ vật, Ngài đã làm toàn hảo vĩnh viễn những người được thánh hóa.
15 Ðức Thánh Linh cũng đã làm chứng cho chúng ta như vậy; sau khi Ngài phán,
16 “Ðây là giao ước Ta sẽ lập với chúng,
Sau những ngày ấy, Chúa phán,
Ta sẽ đặt luật pháp của Ta vào lòng chúng,
Ta sẽ ghi khắc luật pháp ấy vào tâm trí chúng.
17 Những tội lỗi của chúng và những gian ác của chúng,
Ta sẽ không nhớ đến nữa.”
18 Vậy nơi nào tội lỗi đã được tha thứ, nơi đó không cần dâng của lễ chuộc tội nữa.
Khuyên Ðến Gần Ðức Chúa Trời
19 Vậy thưa anh chị em, vì nhờ huyết của Ðức Chúa Jesus, chúng ta được dạn dĩ vào Nơi Chí Thánh 20 bằng một con đường mới và sống mà Ngài đã mở cho chúng ta xuyên qua bức màn, tức xuyên qua xác Ngài, 21 và vì chúng ta có một Vị Tư Tế vĩ đại đang cai quản nhà Ðức Chúa Trời, 22 chúng ta hãy đến gần Ðức Chúa Trời với lòng chân thành trong sự bảo đảm hoàn toàn của đức tin, tấm lòng được tẩy sạch[4][b] khỏi lương tâm xấu, và thân thể được rửa sạch bằng nước trong. 23 Chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng về hy vọng của chúng ta một cách không nao núng, vì Ðấng đã hứa là thành tín. 24 Chúng ta hãy tìm cách giục giã nhau sống yêu thương và làm những điều tốt. 25 Ðừng bỏ sự nhóm lại với nhau như một số người quen làm, nhưng hãy khuyên bảo nhau, và khi anh chị em thấy ngày ấy đến gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.
Nguy Hiểm Khi Bỏ Chúa
26 Vì nếu chúng ta cố ý phạm tội sau khi đã nhận biết chân lý thì không còn lễ vật hiến tế nào để chuộc tội nữa, 27 nhưng chỉ còn đợi chờ sự phán xét kinh khủng và lửa hừng thiêu đốt những kẻ bội nghịch mà thôi. 28 Ai loại bỏ Luật Pháp của Môi-se mà có hai hoặc ba người làm chứng thì chết đi không thương xót, 29 huống chi kẻ giày đạp Con Ðức Chúa Trời, khinh thường huyết của giao ước mà nhờ đó mình được thánh hóa, và nhục mạ Ðức Thánh Linh của ân sủng, anh chị em nghĩ kẻ như thế không đáng bị hình phạt nặng hơn sao? 30 Vì chúng ta biết Ðấng đã phán,
“Sự báo thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo trả,”
và rằng,
“Chúa sẽ đoán xét dân Ngài.”
31 Sa vào tay Ðức Chúa Trời hằng sống thật là kinh khiếp thay!
Lý Do Kiên Trì Theo Chúa
32 Xin anh chị em nhớ lại những ngày đầu, khi mới được khai minh, anh chị em đã chịu đựng một cuộc đấu tranh lớn lao với biết bao gian khổ, 33 khi thì bị sỉ nhục và bị bách hại trước công chúng, khi thì chia sẻ nỗi khổ với những anh chị em bị ngược đãi tương tự. 34 Vì anh chị em đã cảm thương những người bị tù và vui lòng chấp nhận để tài sản mình bị tước đoạt, vì biết rằng anh chị em có một tài sản tốt hơn và còn lại mãi.
35 Vậy xin anh chị em đừng bỏ mất niềm tin quả quyết của mình, vì nó sẽ đem lại phần thưởng lớn. 36 Anh chị em cần phải kiên nhẫn, để sau khi làm xong ý muốn của Ðức Chúa Trời, anh chị em sẽ nhận được điều đã hứa.
37 “Vì chỉ còn ít lâu nữa, Ðấng phải đến sẽ đến,
Ngài sẽ không chậm trễ đâu.
38 Người công chính của Ta sẽ sống bởi đức tin,
Và nếu người nào lui đi,
Thì linh hồn Ta chẳng vui về người ấy chút nào.”
39 Nhưng chúng ta không phải là những kẻ lui đi để bị hư mất, nhưng là những người giữ vững đức tin để linh hồn được cứu.
Lên Án Các Mệnh Phụ Quyền Thế ở Sa-ma-ri
4 Hãy nghe sứ điệp nầy, hỡi các ngươi, những bò cái của Ba-san đang ở trên núi của Sa-ma-ri,
Những kẻ áp bức những người nghèo, những kẻ đàn áp những người cùng khốn,
Những kẻ đã nói với chồng của chúng, “Hãy mang rượu đến để chúng ta uống với nhau.”
2 Chúa Hằng Hữu đã lấy đức thánh khiết của Ngài thề rằng,
“Này, các ngươi sẽ thấy những ngày người ta dùng móc sắt lôi các ngươi đi,
Những người cuối cùng của các ngươi sẽ bị các móc nhọn như lưỡi câu kéo đi làm tù binh.
3 Các ngươi sẽ chui qua các lỗ hổng của tường thành và nhắm trước mặt cắm đầu chạy trốn,
Nhưng các ngươi sẽ bị quăng vào tù trong lâu đài của kẻ thù,”
Chúa phán.
I-sơ-ra-ên Cậy Vào Ảo Tưởng Giữ Các Lễ Nghi Tôn Giáo và Bị Phạt
4 “Hãy đến Bê-tên và phạm tội,
Hãy đến Ghinh-ganh và phạm tội thêm.
Mỗi buổi sáng hãy đem các của lễ thiêu các ngươi đến dâng;
Mỗi ba ngày hãy mang các của dâng một phần mười các ngươi đến hiến.
5 Hãy tiếp tục dâng lễ tạ ơn bằng bánh có men,
Hãy rao báo cho mọi người đem đến dâng các của lễ lạc ý.
Hỡi dân I-sơ-ra-ên, cứ công bố cho mọi người làm như thế đi,
Vì đó là những gì các ngươi thích làm,”
Chúa Hằng Hữu phán.
6 “Dù Ta đã để cho các ngươi phải đói nhăn răng trong mọi thành của các ngươi,
Và thiếu bánh trong mỗi phố của các ngươi,
Thế mà các ngươi vẫn không chịu quay về với Ta,”
Chúa phán.
7 “Ba tháng trước mùa gặt Ta đã giữ trời lại để mưa không rơi xuống đất;
Ta cho mưa xuống thành nầy mà không cho mưa xuống thành kia;
Cánh đồng nầy Ta cho mưa sa nhuần gội,
Cánh đồng kia phải khô héo vì thiếu mưa.
8 Dân hai ba thành lảo đảo đến một thành tìm nước uống, nhưng không có nước để uống cho đã khát,
Thế mà các ngươi vẫn không chịu quay về với Ta,”
Chúa phán.
9 “Ta đã đánh các ngươi, khiến ruộng rẫy và vườn nho các ngươi bị bịnh tàn rụi và nấm mốc,
Khiến cào cào cắn phá cây vả và cây ô-liu của các ngươi,
Thế mà các ngươi vẫn không chịu quay về với Ta,”
Chúa phán.
10 “Ta đã sai các tai họa như các tai họa ở Ai-cập đến giữa các ngươi;
Các trai tráng các ngươi đã bị gươm ngã chết,
Các ngựa chiến các ngươi đã bị bắt đem đi.
Ta đã làm cho mùi hôi thối quanh lều trại các ngươi bốc lên ngập mũi,
Thế mà các ngươi vẫn không chịu quay về với Ta,”
Chúa phán.
11 “Ta đã lật đổ các thành của các ngươi như Ðức Chúa Trời đã lật đổ Sô-đôm và Gô-mô-ra;
Các ngươi đã giống như một thanh củi được rút ra khỏi đống lửa đang cháy,
Thế mà các ngươi vẫn không chịu quay về với Ta,”
Chúa phán.
12 “Vậy hỡi I-sơ-ra-ên, đó là những điều Ta sẽ làm cho ngươi,
Và bởi vì Ta sẽ làm như thế cho ngươi;
Hỡi I-sơ-ra-ên, khá chuẩn bị để gặp Ðức Chúa Trời của ngươi.”
13 Vì này,
Ðấng dựng nên núi non,
Ðấng tạo thành gió bão,
Ðấng bày tỏ ý định của Ngài cho phàm nhân,
Ðấng biến ban mai thành đêm tối,
Ðấng giẫm chân trên các nơi cao của địa cầu,
Ðức Chúa Trời của các đạo quân,
Danh Ngài là Chúa.
Kêu Gọi Mọi Vật Ca Ngợi CHÚA
1 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy ca ngợi Chúa trên các tầng trời!
Hãy ca ngợi Ngài trong cõi trời cao!
2 Hãy ca ngợi Ngài, hỡi tất cả các thiên sứ của Ngài!
Hãy ca ngợi Ngài, hỡi tất cả các thiên binh của Ngài!
3 Hãy ca ngợi Ngài, hỡi mặt trời và mặt trăng!
Hãy ca ngợi Ngài, hỡi tất cả các ngươi, những vì sao sáng!
4 Hãy ca ngợi Ngài, hỡi các ngươi, các tầng trời cao thăm thẳm!
Và hỡi các ngươi, các nguồn nước trên các tầng trời!
5 Tất cả hãy ca ngợi danh Chúa,
Vì Ngài ra lịnh, mọi vật được dựng nên.
6 Ngài thiết lập chúng, để chúng trường tồn mãi mãi;
Ngài ban một định luật, và chúng không bao giờ bị đào thải.
7 Hãy ca ngợi Chúa ở dưới đất,
Hỡi các thủy quái[a] và các vực sâu,
8 Hỡi lửa và mưa đá, hỡi tuyết và mây,
Hỡi gió bão luôn vâng lời Ngài,
9 Hỡi các núi non và mọi đồi nổng,
Hỡi những cây ra trái và những cây bá hương,
10 Hỡi những thú rừng và mọi loài súc vật,
Hỡi những côn trùng và những điểu thú,
11 Hỡi các vua và mọi dân trên đất,
Hỡi các lãnh chúa và các lãnh tụ trên thế gian,
12 Hỡi tất cả thanh thiếu niên nam nữ,
Hỡi quý cụ lão thành và hỡi những trẻ còn thơ.
13 Tất cả hãy ca ngợi danh Chúa,
Vì chỉ có danh Ngài mới đáng được tôn cao;
Vinh quang Ngài vượt trỗi trên cả đất và trời.
14 Ngài nhấc cao sừng của dân Ngài lên,
Nên hãy ca ngợi Ngài, hỡi tất cả thánh dân Ngài,
Con cháu của I-sơ-ra-ên, một dân gần gũi bên Ngài.
Hãy ca ngợi Chúa!
Kêu Gọi Dân I-sơ-ra-ên Ca Ngợi CHÚA
1 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy ca ngợi Chúa một bài ca mới.
Hãy ca ngợi Ngài trong đại hội của các thánh dân.
2 Nguyện I-sơ-ra-ên vui mừng nơi Ðấng tạo nên mình.
Nguyện dân cư của Si-ôn vui vẻ nơi Vua mình.
3 Nguyện họ nhảy múa ca ngợi danh Ngài.
Nguyện họ dùng trống và đàn ca tụng Ngài,
4 Vì Chúa vui nơi con dân Ngài.
Ngài điểm tô cho người khiêm nhường bằng ơn cứu rỗi.
5 Nguyện các thánh đồ vui mừng trong vinh hạnh ấy.
Nguyện họ hát ca ngay cả khi ở trên giường.
6 Nguyện những lời ca ngợi Ðức Chúa Trời ở nơi miệng họ,
Và nguyện một thanh gươm hai lưỡi ở trong tay họ,
7 Ðể họ báo thù các nước,
Và trừng phạt các dân,
8 Ðể trói các vua của chúng bằng xích,
Và những kẻ quyền quý của chúng bằng xiềng sắt,
9 Ðể thi hành án phạt đã ghi sẵn cho chúng.
Ðó là niềm vinh dự cho tất cả thánh đồ.
Hãy ca ngợi Chúa!
Kêu Gọi Hãy Ca Ngợi CHÚA
1 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy ca ngợi Ðức Chúa Trời trong nơi thánh Ngài;
Hãy ca ngợi Ngài trong bầu trời lớn lao vô tận của Ngài.
2 Hãy ca ngợi Ngài về những việc quyền năng Ngài;
Hãy ca ngợi Ngài theo sự lớn lao vĩ đại của Ngài.
3 Hãy dùng tiếng kèn ca ngợi Ngài;
Hãy dùng đàn lia và hạc cầm ca ngợi Ngài;
4 Hãy dùng trống lục lạc và điệu vũ ca ngợi Ngài;
Hãy dùng các đàn dây và ống sáo ca ngợi Ngài;
5 Hãy dùng các phèng la vang tiếng ca ngợi Ngài;
Hãy dùng các khánh chiêng vang rền ca ngợi Ngài;
6 Phàm vật chi thở, hãy ca ngợi Chúa.
Hãy ca ngợi Chúa!
Copyright © 2011 by Bau Dang