M’Cheyne Bible Reading Plan
Từ A-đam đến Áp-ra-ham
1 A-đam, Sết, Ê-nốt, 2 Kê-nan, Ma-ha-la-lên, Gia-rết, 3 Ê-nóc, Mê-thu-sê-la, La-méc, 4 Nô-ê; các con của Nô-ê là Sem, Cham, và Gia-phết.
5 Dòng dõi của Gia-phết: Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-sếch, và Ti-ra.
6 Dòng dõi của Gô-me: Ách-kê-na, Ði-phát,[a] và Tô-gạc-ma.
7 Dòng dõi của Gia-van: Ê-li-sa, Tạt-si, Kít-tim, và Rô-đa-nim.[b]
8 Dòng dõi của Cham: Cút, Ai-cập, Pút, và Ca-na-an.
9 Dòng dõi của Cút: Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca.
Dòng dõi của Ra-a-ma: Shê-ba và Ðê-đan.
10 Cút là cha của Nim-rốt; ông ấy là anh hùng đầu tiên trên mặt đất.
11 Ai-cập là cha của các dân Lút, A-nam, Lê-háp, Náp-tu, 12 Pát-ru, Các-lu (từ dân ấy mà ra dân Phi-li-tin),[c] và dân Cáp-tô.
13 Ca-na-an là cha của Si-đôn con đầu lòng ông ấy, và Hết,[d] 14 dân Giê-bu-si, dân A-mô-ri, dân Ghi-ga-si, 15 dân Hi-vi, dân Ạc-ki, dân Si-ni, 16 dân Ạc-va-đi, dân Xê-ma-ri, và dân Ha-ma-thi.
17 Dòng dõi của Sem: Ê-lam, Át-sua, Ạc-pác-sát, Lút, A-ram, U-xơ, Hun, Ghê-the, và Mê-séc.[e]
18 Ạc-pác-sát là cha của Sê-la. Sê-la là cha của Ê-be.
19 Ê-be có hai con trai. Tên của người anh là Pê-léc, vì trong thời của ông đất bị chia ra, và tên của người em là Giốc-tan.
20 Giốc-tan là cha của Anh-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 21 Ha-đô-ram, U-xanh, Ðiết-la, 22 Ê-banh,[f] A-bi-ma-ên, Sê-ba, 23 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả những người ấy đều là con cháu của Giốc-tan.
24 Sem, Ạc-pác-sát, Sê-la, 25 Ê-be, Pê-léc, Rê-u, 26 Sê-rúc, Na-hô, Tê-ra, 27 Áp-ram, người về sau được đổi tên thành Áp-ra-ham.
Từ Áp-ra-ham đến Gia-cốp
28 Các con trai của Áp-ra-ham là I-sác và Ích-ma-ên.
29 Ðây dòng dõi của họ: Con đầu lòng của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt, kế đến là Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 30 Mích-ma, Ðu-ma, Mát-sa, Ha-đát, Tê-ma, 31 Giê-tua, Na-phích, và Kê-đê-ma. Ðó là các con trai của Ích-ma-ên.
32 Các con trai do bà Kê-tu-ra, vợ kế của Áp-ra-ham, sinh cho ông là Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bách, và Su-a.
Các con trai của Giốc-san là Shê-ba và Ðê-đan.
33 Các con trai của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nốc, A-bi-đa, và Ên-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu của bà Kê-tu-ra.
34 Áp-ra-ham sinh I-sác. Các con của I-sác là Ê-sau và I-sơ-ra-ên.
35 Các con của Ê-sau là Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.
36 Các con của Ê-li-pha là Tê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tam, Kê-na, Tim-na, và A-ma-léc.
37 Các con của Rê-u-ên là Na-hát, Xê-ra, Sam-ma, và Mít-xa.
38 Các con của Sê-i-rơ là Lô-tan, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Ði-sôn, Ê-xe, và Ði-san.
39 Các con của Lô-tan là Hô-ri và Hô-mam. Em gái của Lô-tan là Tim-na.
40 Các con của Sô-banh là A-li-an, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phi, và Ô-nam.
Các con của Xi-bê-ôn là A-gia và A-na.
41 Con của A-na là Ði-sôn.
Các con của Ði-sôn là Ham-ran, Ếch-ban, Ít-ran, và Kê-ran.
42 Các con của Ê-xe là Bin-han, Xa-a-van, và Gia-a-can.[g]
Các con của Ði-san là U-xơ và A-ran.
43 Ðây là tên các vua đã trị vì trong đất Ê-đôm trước khi có một vua nào trị vì trên dân I-sơ-ra-ên:
Bê-la con của Bê-ô; tên của kinh đô vua ấy là Ðin-ha-ba.
44 Sau khi Bê-la băng hà, Giô-báp con trai Xê-ra ở Bô-ra thế vị.
45 Sau khi Giô-báp băng hà, Hu-sam quê ở vùng Tê-ma-ni thế vị.
46 Sau khi Hô-sam băng hà, Ha-đát con của Bê-đát, người đã đánh bại dân Mi-đi-an trong đồng bằng Mô-áp, thế vị; tên của kinh đô vua ấy là A-vít.
47 Sau khi Ha-đát băng hà, Sam-la con của Mách-rê-ca thế vị.
48 Sau khi Sam-la băng hà, Sa-un quê ở Rê-hô-bốt, một địa danh nằm bên bờ sông Ơ-phơ-rát, thế vị.
49 Sau khi Sa-un băng hà, Ba-anh Ha-nan con của Ách-bơ thế vị.
50 Sau khi Ba-anh Ha-nan băng hà, Ha-đát thế vị; tên của kinh đô vua ấy là Pa-i. Vợ của vua ấy tên là Mê-hê-ta-bên. Bà ấy là ái nữ của Ma-trết, ái nữ của Mê Xa-háp. 51 Sau đó Ha-đát băng hà.
Các tộc trưởng của dân Ê-đôm là tộc trưởng Tim-na, tộc trưởng A-li-a,[h] tộc trưởng Giê-thết, 52 tộc trưởng Ô-hô-li-ba-ma, tộc trưởng Ê-la, tộc trưởng Pi-nôn, 53 tộc trưởng Kê-na, tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Míp-xa, 54 tộc trưởng Mạc-đi-ên, và tộc trưởng I-ram. Ðó là các tộc trưởng của dân Ê-đôm.
Các Con của I-sơ-ra-ên và Dòng Dõi của Giu-đa
2 Ðây là tên các con của I-sơ-ra-ên: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, I-sa-ca, Xê-bu-lun, 2 Ðan, Giô-sép, Bên-gia-min, Náp-ta-li, Gát, và A-se.
3 Các con của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la. Ðó là ba người con do bà Bát Su-a, một phụ nữ người Ca-na-an, sinh cho ông. Lúc ấy Ê-rơ con đầu lòng của Giu-đa là một người độc ác trước mặt Chúa, nên Ngài đã bắt ông phải chết sớm. 4 Bà Ta-ma, con dâu của ông, cũng sinh cho ông hai người con, đó là Pê-rê và Xê-ra. Giu-đa có tất cả năm người con.
5 Các con của Pê-rê là Hê-xơ-rôn và Ha-mun.
6 Các con của Xê-ra là Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Ða-ra[i] – năm người cả thảy.
7 Con của Cạt-mi là A-ca,[j] kẻ gây họa cho I-sơ-ra-ên, kẻ đã vi phạm luật biệt riêng vật thánh.
8 Con của Ê-than là A-xa-ri-a.
9 Các con đã sinh cho Hê-xơ-rôn là Giê-ra-mê-ên, Ram, và Kê-lu-bai.
10 Ram sinh Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Nát-sôn, một thủ lãnh của chi tộc Giu-đa. 11 Nát-sôn sinh Sanh-ma;[k] Sanh-ma sinh Bô-a. 12 Bô-a sinh Ô-bết; Ô-bết sinh Giê-se.
13 Giê-se sinh Ê-li-áp con đầu lòng của ông, A-bi-na-đáp con thứ nhì, Si-mê-a con thứ ba, 14 Nê-tha-nên con thứ tư, Ra-đai con thứ năm, 15 Ô-xem con thứ sáu, Ða-vít con thứ bảy. 16 Các chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Ba con trai của bà Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp, và A-sa-ên. 17 Bà A-bi-ga-in sinh A-ma-sa; cha của A-ma-sa là Giê-the, một người Ích-ma-ên.
18 Ca-lép con của Hê-xơ-rôn có các con trai do hai vợ ông, bà A-xu-ba và bà Giê-ri-ốt, sinh cho ông. Ðây là các con trai của ông: Giê-se, Sô-báp, và Ạc-đôn. 19 Khi A-xu-ba qua đời, Ca-lép cưới bà Ép-rát; bà ấy sinh cho ông Hu-rơ. 20 Hu-rơ sinh U-ri; U-ri sinh Bê-xa-lên.
21 Sau khi Hê-xơ-rôn được sáu mươi tuổi, ông cưới con gái của Ma-khia cha của Ghi-lê-át. Ông đến với bà, và bà sinh cho ông Sê-gúp. 22 Sê-gúp sinh Giai-rơ, người có hai mươi ba thị trấn ở vùng Ghi-lê-át. 23 Nhưng Ghê-sua và A-ram đã chiếm lấy của họ các thị trấn vốn thuộc quyền sở hữu của Giai-rơ, kể cả thành Kê-nát cùng với các làng trực thuộc thành ấy, sáu mươi làng cả thảy. Tất cả những người ấy là con cháu của Ma-khia cha của Ghi-lê-át.
24 Sau khi Hê-xơ-rôn qua đời tại Ca-lép Ép-ra-tha, bà A-bi-gia vợ của Hê-xơ-rôn sinh cho ông một con trai tên là Ách-hơ. Ông ấy là cha của Tê-cô-a.
25 Các con của Giê-ra-mê-ên con đầu lòng của Hê-xơ-rôn là Ram con đầu lòng, và các con thứ là Bu-na, Ô-rên, Ô-xêm, và A-hi-gia. 26 Giê-ra-mê-ên có một vợ khác tên là A-ta-ra; bà là mẹ của Ô-nam.
27 Các con của Ram con đầu lòng của Giê-ra-mê-ên là Ma-a-xơ, Gia-min, và Ê-ke.
28 Các con của Ô-nam là Sam-mai và Gia-đa. Các con của Sam-mai là Na-đáp và A-bi-sua.
29 Vợ của A-bi-sua tên là A-bi-ha-in; bà sinh cho ông A-ban và Mô-lít.
30 Các con của Na-đáp là Sê-lết và Áp-pa-im; Sê-lết qua đời không con nối dõi.
31 Con của Áp-pa-im là I-si. Con của I-si là Sê-san. Con của Sê-san là A-lai.
32 Các con của Gia-đa em trai của Sam-mai là Giê-the và Giô-na-than; Giê-the qua đời không con nối dõi.
33 Các con của Giô-na-tham là Pê-lết và Xa-xa. Ðó là các con cháu của Giê-ra-mê-ên.
34 Lúc ấy Sê-san không có con trai mà chỉ có con gái, nhưng ông có một đầy tớ người Ai-cập tên là Gia-ha. 35 Sê-san gả con gái của ông cho Gia-ha đầy tớ của ông; nàng sinh cho ông một cháu trai tên là Át-tai.
36 Át-tai sinh Na-than. Na-than sinh Xa-bát. 37 Xa-bát sinh Ê-phơ-lanh, Ê-phơ-lanh sinh Ô-bết. 38 Ô-bết sinh Giê-hu. Giê-hu sinh A-xa-ri-a. 39 A-xa-ri-a sinh Hê-lê. Hê-lê sinh Ê-lê-a-sa. 40 Ê-lê-a-sa sinh Sít-mai. Sít-mai sinh Sanh-lum. 41 Sanh-lum sinh Giê-ca-mi-a. Giê-ca-mi-a sinh Ê-li-sa-ma.
42 Con đầu lòng của Ca-lép em của Giê-ra-mê-ên là Mê-sa[l] cha của Xi-phơ. Con thứ của Ca-lép là Ma-rê-sa[m] cha của Hếp-rôn.
43 Các con của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-pu-a, Rê-kem, và Sê-ma. 44 Sê-ma sinh Ra-ham, Ra-ham là cha của Giốc-kê-am; Rê-kem sinh Sam-mai. 45 Con của Sam-mai là Ma-ôn; Ma-ôn là cha của Bết Xua.
46 Ê-pha, tì thiếp của Ca-lép, cũng sinh cho ông Ha-ran, Mô-xa, và Ga-xê.
47 Các con của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-tham, Ghê-san, Pê-lét, Ê-pha, và Sa-áp.
48 Ma-a-ca tì thiếp của Ca-lép sinh Sê-be và Tia-ha-na. 49 Bà cũng sinh Sa-áp cha của Mát-man-na, và Sê-va cha của Mách-bê-na và Ghi-bê-a. Con gái của Ca-lép là Ách-sa. 50 Ðó là dòng dõi của Ca-lép.
Các con của Hu-rơ con đầu lòng của Ép-ra-tha là Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim, 51 Sanh-ma cha của Bết-lê-hem, và Ha-rếp cha của Bết Ga-đe.
52 Con cháu của Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim là Ha-nô-ê, và phân nửa thị tộc Mê-nu-hốt.
53 Con cháu của Ki-ri-át Giê-a-rim là thị tộc I-thơ-ri, thị tộc Pu-thi, thị tộc Su-ma-thi, và thị tộc Mích-ra-i. Từ các thị tộc ấy ra các dân Xô-ra-thi và dân Ếch-ta-ôn.
54 Con cháu của Sanh-ma là Bết-lê-hem, thị tộc Nê-tô-pha-thi, A-trốt của gia tộc Giô-áp, phân nửa thị tộc Ma-na-ha-thi, và thị tộc Xô-ri.
55 Các gia tộc của những người sao chép và dạy giáo luật sống tại Gia-bê là gia tộc Ti-ra-thi, gia tộc Si-mê-a-thi, và gia tộc Su-ca-thi. Họ là con cháu của thị tộc Kê-ni đến từ Ham-mát, tổ tiên của dòng họ Rê-cáp.
Chức Vụ Thượng Tế của Ðức Chúa Jesus
8 Ðiểm chính yếu của những điều chúng ta vừa nói là thế này: Chúng ta có một Vị Thượng Tế như thế đang ngồi bên phải ngai của Ðấng Tôn Nghiêm trên trời; 2 Ngài đang phục vụ trong đền thánh, là đền tạm thật, do chính Chúa, chứ không do loài người, dựng lên.
3 Vì mỗi vị thượng tế được lập lên để dâng các lễ vật và các thú vật hiến tế, nên Vị Thượng Tế này cũng cần có vật chi để dâng. 4 Tuy nhiên nếu Ngài ở thế gian, Ngài không phải làm tư tế, vì đã có các vị khác dâng các lễ vật theo Luật Pháp dạy rồi. 5 Những vị ấy phục vụ trong một đền thờ chỉ là mô phỏng và hình bóng của ngôi đền thật trên trời, như Môi-se đã được căn dặn khi ông sắp xây dựng đền tạm,
“Hãy cẩn thận làm theo kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.”
6 Nhưng hiện nay Ngài có một chức vụ cao trọng hơn, và như thế Ngài cũng làm Ðấng Trung Gian cho một giao ước tốt hơn, một giao ước được lập trên những lời hứa tốt hơn. 7 Vì nếu giao ước thứ nhất đã toàn hảo thì không cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế làm gì. 8 Tuy nhiên Ðức Chúa Trời đã hạch tội họ khi Ngài phán,
“Này, những ngày đến, Chúa phán,
Ta sẽ lập một giao ước mới với nhà I-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa;
9 Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã lập với tổ phụ chúng,
Trong ngày Ta nắm tay chúng,
Dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập.
Vì chúng chẳng tiếp tục giữ giao ước Ta,
Nên Ta không quan tâm đến chúng nữa, Chúa phán.
10 Vì đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà I-sơ-ra-ên,
Sau những ngày ấy, Chúa phán,
Ta sẽ đặt luật pháp Ta vào tâm trí chúng,
Ta sẽ ghi khắc luật pháp Ta vào lòng chúng,
Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của chúng,
Và chúng sẽ làm dân Ta.
11 Chúng sẽ không phải dạy đồng bào mình,
Cũng không ai phải dạy anh chị em mình rằng,
‘Hãy nhìn biết Chúa,’
Vì tất cả sẽ biết Ta, từ kẻ nhỏ nhất đến người lớn nhất;
12 Bởi vì Ta sẽ tỏ lòng thương xót đối với các gian ác của chúng,
Còn các tội lỗi của chúng, Ta sẽ không nhớ đến nữa.”
13 Khi Ngài phán, “một giao ước mới,” có nghĩa là Ngài làm cho giao ước thứ nhất trở nên lỗi thời; và những gì trở nên lỗi thời và cũ kỹ thì biến mất chẳng bao lâu.
Mô-áp
2 Chúa phán thế nầy,
“Vì tội của Mô-áp nặng gấp ba gấp bốn lần, nên Ta sẽ chẳng quay mặt đi mà không phạt nó.
Vì nó đã đốt hài cốt vua Ê-đôm ra tro bụi,
2 Nên Ta sẽ sai một ngọn lửa đến trên Mô-áp;
Ngọn lửa ấy sẽ thiêu rụi các lâu đài của Kê-ri-ốt.
Mô-áp sẽ bị diệt vong trong cảnh hỗn loạn, giữa những tiếng gào thét giao tranh và những tiếng kèn xung trận.
3 Ta sẽ tiêu diệt kẻ cầm quyền phán xét khỏi nó, và diệt trừ tất cả các kẻ có quyền hành chung với kẻ ấy,”
Chúa phán.
Giu-đa
4 Chúa phán thế nầy,
“Vì tội của Giu-đa nặng gấp ba gấp bốn lần, nên Ta sẽ chẳng quay mặt đi mà không phạt nó.
Vì chúng đã loại bỏ Luật Pháp của Chúa và không vâng giữ các luật lệ Ngài,
Chúng đã để các thần tượng giả dối lừa gạt chúng đi sai lạc,
Ðó là các thần tượng giả dối mà tổ tiên chúng đã tin thờ,
5 Nên Ta sẽ sai một ngọn lửa đến trên Giu-đa;
Ngọn lửa ấy sẽ thiêu rụi các lâu đài của Giê-ru-sa-lem.”
I-sơ-ra-ên
6 Chúa phán thế nầy,
“Vì tội của I-sơ-ra-ên nặng gấp ba gấp bốn lần, nên Ta sẽ chẳng quay mặt đi mà không phạt nó.
Vì chúng đã bán đứng người công chính để lấy bạc,
Chúng đã bán người nghèo để lấy một đôi giày,
7 Chúng đã đạp đầu người nghèo vào bụi đất,
Chúng đã cướp công lý của người bị áp bức,
Tệ hơn nữa, hai cha con ăn nằm với một người phụ nữ,
Khiến cho danh thánh của Ta bị ô uế giữa các dân.
8 Chúng mặc những y phục của người ta cầm thế mà phủ phục trước bàn thờ các thần tượng của chúng;
Trong đền thờ các thần tượng của chúng, chúng dâng rượu tế mua bằng tiền lừa gạt người ta.
9 Dù vậy Ta đã phù hộ chúng bằng cách tiêu diệt dân A-mô-ri trước mặt chúng,
Ðó là dân cao lớn như cây bá hương và mạnh mẽ như cây sồi;
Trên mặt đất, Ta đã diệt trừ mọi trái; dưới mặt đất, Ta đã không cho một rễ nào được sống còn.
10 Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai-cập,
Ta đã dẫn dắt các ngươi bốn mươi năm trong đồng hoang và ban cho các ngươi xứ của dân A-mô-ri.
11 Ta đã nuôi dưỡng một số con trai các ngươi thành các tiên tri, một số người trẻ của các ngươi thành những người Na-xi-rê;
Hỡi dân I-sơ-ra-ên, có đúng như thế không?”
Chúa phán.
12 “Thế nhưng các ngươi đã bắt những người Na-xi-rê uống rượu,
Và đã ra lệnh cho các tiên tri rằng ‘Các ông không được nói tiên tri.’
13 Này, Ta sẽ ép các ngươi như chiếc xe chở đầy những bó lúa cán xuống mặt đường.
14 Do đó người nhanh lẹ sẽ không thoát chết,
Người mạnh mẽ sẽ không duy trì được sức lực,
Kẻ dũng mãnh sẽ không cứu được mạng sống mình,
15 Quân xạ tiễn sẽ không trụ được tại chỗ,
Các chiến sĩ chạy nhanh nhất cũng không chạy thoát,
Ngay cả những kỵ binh cỡi các chiến mã cũng không chạy thoát kịp để giữ mạng mình,
16 Thậm chí kẻ can đảm nhất giữa vòng các dũng sĩ sẽ chạy trốn trần truồng trong ngày ấy,”
Chúa phán.
1 Ôi Vua, Ðức Chúa Trời của con, con tôn ngợi Ngài;
Con sẽ chúc tụng danh Ngài đời đời vô cùng.
2 Mỗi ngày con sẽ chúc tụng Ngài;
Con sẽ ca ngợi danh Ngài đời đời vô cùng.
3 Chúa thật vĩ đại và rất đáng ca ngợi;
Sự vĩ đại Ngài không sao dò thấu được.
4 Thế hệ này ca ngợi công việc của Ngài cho thế hệ kia;
Họ sẽ rao truyền các việc quyền năng của Ngài.
5 Con sẽ ca ngợi sự vinh hiển huy hoàng của uy nghi Ngài;
Con sẽ rao ra các việc diệu kỳ của Ngài.
6 Rồi người ta sẽ nói đến các việc kinh hoàng của quyền năng Ngài;
Và con sẽ mãi cao rao sự vĩ đại của Ngài.
7 Họ sẽ hăm hở thuật lại những kinh nghiệm về lòng tốt vô biên của Ngài,
Và lớn tiếng hoan ca đức công chính của Ngài.
8 Chúa thật khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót,
Chậm nóng giận và đầy dẫy tình thương.
9 Chúa thật tốt với mọi người;
Ơn thương xót của Ngài bao trùm mọi vật Ngài đã dựng nên.
10 Chúa ôi, mọi vật Ngài đã dựng nên sẽ cảm tạ Ngài;
Các thánh đồ của Ngài sẽ chúc tụng Ngài.
11 Họ sẽ nói về vinh hiển của vương quốc Ngài,
Và ca tụng quyền năng Ngài,
12 Ðể con cái loài người biết các việc quyền năng Ngài,
Và vinh hiển uy nghi của vương quốc Ngài.
13 Vương quốc Ngài là vương quốc đời đời;
Quyền thống trị của Ngài kéo dài mọi thế hệ.
( Chúa rất thành tín về những lời Ngài đã hứa;
Ngài thương yêu mọi vật Ngài đã dựng nên.)[a]
14 Chúa đỡ dậy mọi người bị ngã quỵ;
Ngài nâng lên những ai bị bắt phải sấp mình.
15 Mắt của mọi loài ngóng trông nơi Ngài;
Ngài ban cho chúng thức ăn đúng lúc.
16 Ngài sè tay ra,
Mọi sinh vật được no nê.
17 Trong mọi đường lối Ngài, Chúa lúc nào cũng đúng;
Ngài rất nhân từ với mọi vật Ngài dựng nên.
18 Chúa ở gần mọi người cầu khẩn Ngài;
Ngài ở gần mọi người chân thành cầu khẩn Ngài.
19 Ngài làm thỏa nguyện những người kính sợ Ngài;
Và Ngài cũng nghe tiếng kêu cầu của họ và giải cứu cho.
20 Chúa gìn giữ mọi người yêu kính Ngài,
Nhưng Ngài tiêu diệt mọi kẻ gian ác.
21 Miệng tôi sẽ nói lên những lời ca ngợi Chúa.
Nguyện mọi loài xác thịt sẽ chúc tụng danh thánh của Ngài đời đời vô cùng.
Copyright © 2011 by Bau Dang