M’Cheyne Bible Reading Plan
Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa
(2 Sử 29:1-2; 31:1, 20-21; 2Vua 17:3-7)
18 Năm thứ ba của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con của A-kha vua Giu-đa bắt đầu trị vì. 2 Ông được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi con gái của Xê-ca-ri-a. 3 Ông làm điều tốt trước mặt Chúa giống như Ða-vít tổ tiên ông đã làm. 4 Ông dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đập nát con rắn bằng đồng Môi-se đã làm, vì cho đến lúc đó dân I-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hút-tan. 5 Ông tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua Giu-đa sau ông, không ai được như thế, và trong số các vị vua trước ông, cũng chẳng ai được như vậy, 6 vì ông bám chặt lấy Chúa. Ông chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà Chúa đã truyền cho Môi-se. 7 Chúa ở với ông, nên ông làm gì cũng được thành công. Ông nổi lên chống lại vua A-sy-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. 8 Ông tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
9 Năm thứ tư của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a vua I-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-sy-ri bắt dân I-sơ-ra-ên đem đi lưu đày ở A-sy-ri. Ông cho họ định cư bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi, 12 bởi vì họ không vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức tất cả những điều Môi-se tôi tớ Chúa đã truyền. Họ không nghe theo và cũng chẳng thi hành những điều ấy.
Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa
(2 Sử 32:9-19; Ê-sai 36:1-12)
13 Năm thứ mười bốn của triều đại Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy chúng. 14 Ê-xê-chia vua Giu-đa sai sứ giả đến gặp vua A-sy-ri tại La-kích và tâu rằng, “Tôi có lỗi. Xin ngài lui binh. Ngài muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua A-sy-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa phải nộp mười ngàn hai trăm ký bạc và một ngàn hai mươi ký vàng.[a] 15 Vì thế Ê-xê-chia phải lấy tất cả bạc trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho tàng của hoàng cung nộp cho vua ấy. 16 Bấy giờ Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của Ðền Thờ Chúa, tức vàng mà Ê-xê-chia vua Giu-đa đã cẩn trên những cánh cửa ấy, để đem nộp cho vua A-sy-ri.
17 Dầu vậy vua A-sy-ri vẫn sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[b] cùng một đạo binh rất lớn từ La-kích đến đánh Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và hãm áp Giê-ru-sa-lem. Khi đến gần thành, họ tiến vào, rồi dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của Thượng Hồ, nơi con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện, 18 và yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố đi ra gặp họ.
19 Ráp-sa-kê nói với họ, “Hãy về và bảo Ê-xê-chia: Ðại đế của ta là vua A-sy-ri đã phán như thế nầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh, lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng? Ðó chỉ là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn vua Ai-cập sẽ bị như vậy. 22 Còn nếu ngươi bảo ta rằng, ‘Chúng tôi tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở trước bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-sy-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa há chẳng phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa đã bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ đó và tiêu diệt nó đi.”
26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a, Sép-na, và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng, “Xin ngài nói với các tôi tớ ngài bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”
27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ, “Há chủ ta đã sai ta đến chỉ để nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi, nữa sao?”
28 Ðoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời đại đế của ta là vua A-sy-ri. 29 Vua của ta phán như thế nầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy vào Chúa mà rằng, ‘Chúa chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-sy-ri.’ 31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri phán thế nầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả của mình và sẽ được uống nước giếng của mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi hắn nói rằng, ‘Chúa sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ sở của họ khỏi tay vua A-sy-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạc-pát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạc-va-im, dân Hê-na, và dân I-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu được nước của họ khỏi tay ta chăng? Thế thì Chúa há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được sao?”
36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua đã truyền rằng, “Ðừng trả lời hắn.” 37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan bí thư, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố xé rách áo họ, rồi vào thành gặp vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.
Lời Mở Ðầu
1 Phao-lô, một tù nhân của Ðức Chúa Jesus Christ, và Ti-mô-thê anh em chúng ta, kính gởi Phi-lê-môn anh em yêu dấu và bạn đồng lao của chúng tôi, 2 đồng kính gởi Áp-phi chị em của chúng tôi, Ạc-khíp-pu chiến hữu của chúng tôi, và hội thánh nhóm ở nhà anh. 3 Nguyện xin ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Chúa, Ðức Chúa Jesus Christ, đến với anh chị em.
Ðức Tin và Tình Thương
4 Tôi luôn cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi mỗi khi nhớ đến anh trong khi cầu nguyện, 5 bởi vì tôi đã nghe về đức tin của anh nơi Ðức Chúa Jesus và tình thương của anh đối với tất cả thánh đồ. 6 Nguyện sự hiệp thông trong đức tin của anh được hiệu quả, để mọi người biết rằng mọi điều tốt đẹp trong chúng ta đều hướng về Ðấng Christ. 7 Thật vậy tình thương của anh đã làm cho tôi rất vui mừng và cảm kích, bởi vì thưa anh, anh đã làm phấn khởi lòng các thánh đồ.
Xin cho Ô-nê-sim
8 Vì lẽ đó dù trong Ðấng Christ, tôi có thể mạnh dạn yêu cầu anh làm một việc chính đáng, 9 nhưng tôi thà nài xin anh trên căn bản của tình yêu thì hơn –một người như tôi, Phao-lô, một người già, và bây giờ cũng là một tù nhân vì Ðức Chúa Jesus Christ– 10 Tôi nài xin anh cho Ô-nê-sim, con tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong xiềng xích. 11 Trước kia nó thật vô dụng đối với anh, nhưng bây giờ nó hữu ích cho cả anh và tôi. 12 Tôi gởi nó về lại với anh, như gởi theo lòng dạ của tôi vậy. 13 Tôi thật muốn giữ nó lại với tôi, để nó thay anh giúp tôi trong lúc tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng, 14 nhưng tôi không muốn làm điều gì khi chưa được anh đồng ý, để việc nghĩa của anh không phải vì miễn cưỡng, mà là tự nguyện. 15 Có lẽ vì cớ ấy mà nó phải tạm xa cách anh ít lâu, để anh sẽ có nó lại mãi mãi, 16 không phải như một tên nô lệ nữa, nhưng hơn một tên nô lệ, một anh em yêu dấu, đặc biệt là với tôi, huống chi là với anh, cả phần xác lẫn phần trong Chúa.
17 Vậy nếu anh còn xem tôi là bạn đồng lao, xin anh đón nhận nó như thể đón nhận tôi. 18 Nếu nó đã làm thiệt hại anh điều gì hoặc mắc nợ anh bao nhiêu, xin anh tính cho tôi. 19 Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết điều nầy, tôi sẽ trả cho anh. Còn chuyện anh nợ tôi cả cuộc đời của anh, tôi chưa bàn tới. 20 Phải, thưa anh, mong anh cho tôi được món lợi[a] nầy trong Chúa; xin làm phấn khởi lòng tôi trong Ðấng Christ.
21 Tôi viết thư nầy với niềm tin quả quyết rằng anh sẽ làm theo, và tôi biết anh sẽ làm hơn điều tôi xin.
22 Còn điều nầy nữa: xin anh chuẩn bị cho tôi một phòng, vì tôi tin rằng nhờ lời cầu nguyện của anh chị em, tôi sẽ được trả tự do để về với anh chị em.
Lời Chào Cuối Thư
23 Ê-pháp-ra, bạn đồng tù với tôi trong Ðức Chúa Jesus Christ, gởi lời thăm anh. 24 Mác, A-ri-tạc, Ðê-ma, và Lu-ca, các bạn đồng lao của tôi, cũng vậy.
25 Nguyện xin ân sủng của Ðức Chúa Jesus Christ ở với tâm linh anh chị em. A-men.
Kẻ Vong Ân Bạc Nghĩa Bị Báo Trả
11 “Khi I-sơ-ra-ên còn là một trẻ thơ, Ta yêu thương nó;
Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
2 Các đầy tớ Ta càng kêu gọi chúng bao nhiêu, chúng càng chạy xa họ bấy nhiêu.
Chúng dâng các của tế lễ cho Ba-anh và dâng hương cho các hình tượng.
3 Dầu vậy chính Ta đã dạy chúng chập chững bước đi;
Ta đã bồng ẵm chúng trong tay Ta,
Nhưng chúng chẳng muốn biết rằng Ta đã chữa lành chúng.
4 Ta đã dùng những dây nhân ái và những dải buộc yêu thương kéo chúng về;
Ta đã cất bỏ cái ách trên cổ chúng;
Ta đã cúi xuống và đút cho chúng ăn.
5 Không, chúng phải trở lại Ai-cập, và A-sy-ri sẽ là vua của chúng,
Bởi vì chúng đã khước từ trở về với Ta.
6 Gươm đao sẽ vung lên trong các thành của chúng;
Các thanh sắt nơi các cổng thành của chúng sẽ bị phá tan;
Mọi kế hoạch của chúng sẽ bị hỏng.
7 Dân Ta đã quyết lòng lìa bỏ Ta;
Mặc dù chúng gọi Ta là Ðấng Tối Cao,
Nhưng không ai trong chúng tôn cao Ta.”
Ðức Từ Bi Vô Lượng của CHÚA
8 “Hỡi Ép-ra-im, Ta nỡ nào từ bỏ ngươi?
Hỡi I-sơ-ra-ên, Ta đành lòng nào đem ngươi trao cho kẻ khác?
Làm sao Ta có thể biến ngươi ra như Át-ma?
Làm sao Ta có thể khiến ngươi thành như Xê-boi-im?
Lòng Ta chùn lại trong Ta;
Lòng thương xót của Ta được nhen nhúm lên rồi.
9 Ta sẽ không thi hành án phạt dành cho ngươi theo cơn giận phừng phừng của Ta;
Ta sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im;
Vì Ta là Ðức Chúa Trời chứ không phải phàm nhân.
Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi,
Và Ta sẽ đến không phải trong cơn phẫn nộ.
10 Chúng sẽ bước đi theo Chúa,
Ðấng gầm lên như sư tử;
Khi Ngài gầm lên,
Các con cái Ngài từ phương tây sẽ run rẩy kéo về.
11 Chúng sẽ run rẩy kéo đến như đàn chim từ Ai-cập bay về, như đàn bồ câu từ xứ A-sy-ri bay về.
Ta sẽ cho chúng ở trong nhà của chúng,” Chúa phán.
Một Quá Trình Phản Nghịch
12 “Ép-ra-im đã bao quanh Ta bằng những lời giả dối, còn nhà I-sơ-ra-ên thì dùng sự dối gian;
Nhưng Giu-đa vẫn còn kính sợ Ðức Chúa Trời và vẫn còn trung thành với Ðấng Thánh.
Cầu Xin Chúa Ban Phước Nơi Thánh
Bài ca đi lên đền thánh
1 Chúa ôi, xin Ngài nhớ lại Ða-vít,
Và những khổ nạn ông ấy đã chịu.
2 Thể nào ông ấy đã thề với Chúa,
Và nguyện với Ðấng Toàn Năng của Gia-cốp rằng,
3 “Chắc chắn con sẽ không vào nhà con;
Con sẽ không lên giường con để nghỉ;
4 Con sẽ không cho phép mình chợp mắt,
Hoặc cho mí mắt con sụp xuống ngủ,
5 Cho đến khi con tìm được một nơi cho Chúa,
Một chỗ ở cho Ðấng Toàn Năng của Gia-cốp.”
6 Kìa, chúng tôi đã nghe báo Rương Giao Ước đang ở Ép-ra-tha;
Người ta đã tìm được Rương ấy trong cánh đồng của Gia-a.
7 “Chúng ta hãy cùng nhau đến nơi Ngài ngự;
Chúng ta hãy cùng nhau thờ lạy nơi bệ chân Ngài.”
8 Chúa ôi, xin trỗi dậy để vào nơi nghỉ ngơi của Ngài;
Xin Ngài và Rương Giao Ước quyền năng của Ngài.
9 Nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy đức công chính;
Nguyện những người thánh của Ngài cất tiếng reo mừng.
10 Vì cớ Ða-vít tôi tớ Ngài,
Xin đừng ngoảnh mặt khỏi người được xức dầu của Ngài.
11 Chúa đã thề với Ða-vít,
Một lời thề Ngài sẽ không rút lại:
“Ta sẽ đặt trên ngai ngươi một đứa con do ngươi sinh ra.
12 Nếu con cháu ngươi vâng giữ các giao ước Ta,
Và vâng giữ các chứng ngôn Ta dạy bảo,
Thì con cháu của chúng cũng sẽ ngồi trên ngai của ngươi mãi mãi.”
13 Quả thật Chúa đã chọn Si-ôn;
Ngài muốn nơi ấy làm nơi Ngài ngự.
14 “Ðây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời;
Nơi đây Ta sẽ ngự, vì Ta muốn nơi ấy.
15 Ta sẽ ban phước cho nó được dồi dào lương thực;
Ta sẽ cho những người nghèo của nó có cơm bánh no đầy.
16 Các tư tế của nó Ta sẽ mặc cho sự cứu rỗi;
Những người thánh của nó sẽ lớn tiếng ca mừng.
17 Tại đó Ta sẽ làm cho sừng của Ða-vít mọc lên;
Ta đã chuẩn bị một cây đèn cho người được xức dầu của Ta.
18 Ta sẽ mặc nỗi sỉ nhục cho quân thù của nó,
Nhưng vương miện trên đầu nó thì sẽ rạng ngời.”
Anh Chị Em Sống Hòa Thuận
Bài ca đi lên đền thánh của Ða-vít
1 Kìa, tốt đẹp thay và phước hạnh thay khi anh chị em[a] sống hòa thuận với nhau!
2 Ðiều ấy chẳng khác gì dầu quý báu từ trên đầu chảy xuống,
Chảy xuống râu,
Chảy xuống râu của A-rôn,
Rồi tiếp tục chảy xuống vạt áo ông.
3 Ðiều ấy giống như sương móc từ Núi Hẹt-môn sa xuống các rặng núi Si-ôn,
Vì tại đó Chúa ban phước,
Phước của sự sống đời đời.
Kêu Gọi Những Người Phục Vụ Ðền Thờ Ban Ðêm Ca Ngợi CHÚA
Bài ca đi lên đền thánh
1 Hỡi tất cả tôi tớ Chúa,
Những người phục vụ trong nhà Chúa ban đêm,
Xin hãy chúc tụng Chúa.
2 Xin đưa cao đôi tay quý vị lên trong nơi thánh và chúc tụng Chúa.
3 Nguyện Chúa, Ðấng dựng nên trời và đất, ban phước cho quý vị từ Si-ôn.
Copyright © 2011 by Bau Dang