Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Sa-mu-ên 5-6

Dân Phi-li-tin Bị Tai Ương Vì Giữ Rương Giao Ước

Bấy giờ dân Phi-li-tin lấy Rương của Ðức Chúa Trời từ Ê-bên-ê-xe đem về Ách-đốt. Dân Phi-li-tin lấy Rương của Ðức Chúa Trời đem vào đền thờ Thần Ða-gôn và để bên cạnh tượng Thần Ða-gôn.

Sáng sớm hôm sau khi dân Ách-đốt thức dậy, kìa, tượng Thần Ða-gôn đang nằm sấp xuống đất trước Rương của Chúa. Thấy vậy họ đỡ tượng của Ða-gôn dậy và khiêng tượng ấy để vào chỗ cũ. Nhưng sáng sớm hôm sau, khi họ thức dậy, kìa, tượng Thần Ða-gôn lại nằm sấp xuống đất trước Rương của Chúa nữa. Lần nầy đầu của Ða-gôn và hai bàn tay đều gãy rời, nằm ngay ở ngạch cửa, chỉ có thân mình Ða-gôn là còn lại. Bởi vậy từ đó các tế sư của Thần Ða-gôn và tất cả những ai vào đền thờ Thần Ða-gôn đều không giẫm chân lên ngạch cửa của đền thờ Thần Ða-gôn tại Ách-đốt cho đến ngày nay.

Tay của Chúa đè nặng trên dân Ách-đốt. Ngài giáng họa khủng khiếp xuống trên họ và dùng bướu độc đánh họ, tức đánh dân Ách-đốt và dân trong những vùng trực thuộc quyền cai trị của thành ấy. Khi dân ở Ách-đốt thấy thế, họ nói, “Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên không thể ở với chúng ta được, vì tay Ngài đã giáng họa trên chúng ta và trên Thần Ða-gôn của chúng ta rất nặng nề.” Vậy họ phái người đi mời tất cả các lãnh chúa của dân Phi-li-tin lại và nói, “Chúng ta phải làm gì với Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đây?”

Những vị ấy đáp, “Hãy chở Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đến Gát.” Vậy họ mang Rương của Ðức Chúa Trời ra đi. Sau khi họ đã đem Rương ấy đến Gát, tay Chúa hủy diệt thành ấy rất nặng nề. Ngài đánh hạ những người trong thành, cả lớn lẫn nhỏ đều bị bướu độc mọc trên mình.

10 Vì thế họ chở Rương của Ðức Chúa Trời đến Éc-rôn. Vậy Rương của Ðức Chúa Trời được đưa đến Éc-rôn. Dân Éc-rôn thấy thế bèn kêu la rằng, “Họ đem Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đến với chúng ta để giết chúng ta và giết dân chúng ta!”

11 Thế là họ phái người đi mời tất cả các lãnh chúa của dân Phi-li-tin lại và nói, “Hãy gởi trả Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên trở về chỗ của nó, để Rương ấy không giết chúng ta và dân chúng ta.” Vì trong tất cả các thành người ta đều kinh hãi vì sợ chết, bởi tay của Ðức Chúa Trời đã đè nặng trên họ. 12 Tất cả những ai không chết vì bịnh dịch thì cũng bị bướu độc nổi lên cùng mình, và tiếng than khóc trong thành vang vọng khắp vòm trời.

Rương Giao Ước Ðược Trả Về

Ðến lúc ấy Rương Giao Ước của Chúa đã ở trong xứ Phi-li-tin được bảy tháng. Dân Phi-li-tin gọi các tế sư và các bốc sư của họ đến để tham vấn, “Chúng tôi phải làm gì với Rương Giao Ước của Chúa? Xin chỉ chúng tôi cách nào để gởi trả Rương ấy về chỗ cũ.”

Vậy họ bảo, “Nếu anh em muốn gởi trả Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên về, anh em chớ gởi Rương ấy về không, nhưng bằng mọi cách, anh em phải gởi kèm theo một của lễ chuộc lỗi. Bấy giờ anh em mới được chữa lành, và anh em sẽ biết tại sao tay Ngài đã đè nặng trên anh em.”

Họ hỏi, “Thế chúng tôi phải lấy gì làm của lễ chuộc lỗi để gởi về cho Ngài?”

Họ đáp, “Năm cục bướu bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, theo số các lãnh chúa của dân Phi-li-tin, vì bịnh dịch đó đã hoành hành trên tất cả anh em và trên các lãnh chúa của anh em. Vì thế anh em phải làm tượng của các cục bướu và tượng của các con chuột đã gieo tai ương trong khắp xứ. Anh em cũng phải tôn vinh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên; may ra Ngài sẽ nhẹ tay với anh em, với các thần của anh em, và với xứ sở của anh em. Tại sao anh em lại cứng lòng như người Ai-cập và Pha-ra-ôn đã cứng lòng ngày xưa? Khi Ngài thực hiện những việc quyền năng giữa những người ấy, há chẳng phải cuối cùng họ cũng phải chấp nhận để cho dân Ngài ra đi hay sao? Vậy bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới, bắt hai con bò cái mới sinh con và chưa hề mang ách, thắng hai con bò ấy vào cỗ xe, rồi tách con của chúng ra. Ðoạn lấy Rương của Chúa đem đặt trên xe, rồi để các vật bằng vàng làm của lễ chuộc lỗi vào một cái hộp ở bên cạnh, xong hãy để đôi bò ấy kéo cỗ xe ra đi. Anh em hãy theo dõi. Nếu xe ấy cứ thẳng đường mà đi về lãnh thổ của Rương, tức đi về hướng Bết Sê-mếch, thì đó có nghĩa là Ngài đã giáng họa lớn trên chúng ta. Còn không, chúng ta sẽ biết rằng không phải tay Ngài đã đánh chúng ta đâu, bèn là sự trùng hợp thôi.”

10 Vậy họ cho làm như thế. Họ bắt hai con bò cái có con còn bú, thắng chúng vào cỗ xe, bắt các con nhỏ của chúng nhốt lại trong chuồng. 11 Sau đó họ đặt Rương của Chúa lên xe, cùng với hộp đựng các con chuột bằng vàng và các tượng cục bướu. 12 Ðoạn họ để đôi bò cái đó kéo xe đi. Hai con bò ấy cứ thẳng đường về hướng Bết Sê-mếch mà đi tới. Chúng cứ theo một đường đó mà vừa đi vừa rống, không quay qua bên phải hoặc bên trái. Các lãnh chúa của dân Phi-li-tin đi theo phía sau xe cho đến biên giới Bết Sê-mếch.

13 Lúc ấy dân Bết Sê-mếch đang gặt lúa mì trong thung lũng. Khi họ ngước mắt lên và thấy Rương Thánh đang tiến tới, họ vô cùng mừng rỡ. 14 Khi cỗ xe đến cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, nó dừng lại bên một tảng đá lớn trong cánh đồng đó. Họ bèn chẻ cỗ xe ra làm củi và bắt hai con bò cái làm của lễ thiêu dâng lên Chúa. 15 Người Lê-vi đem Rương của Chúa xuống, cùng với chiếc hộp được gởi kèm theo –trong hộp đó có các vật bằng vàng– rồi để tất cả trên một tảng đá lớn tại đó. Ngày hôm ấy dân Bết Sê-mếch dâng các của lễ thiêu và các con vật hiến tế lên Chúa. 16 Ngày hôm đó năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin đều chứng kiến mọi việc ấy, rồi họ trở về Éc-rôn.

17 Ðây là các cục bướu bằng vàng mà dân Phi-li-tin đã gởi làm của lễ chuộc lỗi dâng lên Chúa: một cho Ách-đốt, một cho Ga-xa, một cho Ách-kê-lôn, một cho Gát, và một cho Éc-rôn, 18 và năm con chuột bằng vàng theo số lượng các thành của dân Phi-li-tin do năm lãnh chúa cai trị, kể cả các đồn lũy kiên cố và các làng mạc ở thôn quê. Tảng đá lớn, nơi người ta khiêng Rương của Chúa xuống để bên cạnh, trong cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, vẫn còn đó cho đến ngày nay.

19 Bấy giờ Ngài đánh phạt dân Bết Sê-mếch, vì họ đã ngắm nhìn Rương của Chúa. Ngài đánh chết bảy mươi người[a] trong dân. Dân chúng thọ tang than khóc, vì Chúa đã đánh họ một trận đòn rất nặng.

Rương Thánh Ðược Ðể tại Ki-ri-át Giê-a-rim

20 Dân ở Bết Sê-mếch nói, “Ai có thể đứng nổi trước mặt Chúa Ðức Chúa Trời[b] thánh khiết nầy? Ngài sẽ rời chúng ta và đến ở với ai đây?” 21 Họ phái các sứ giả đến với dân ở Ki-ri-át Giê-a-rim và nói, “Dân Phi-li-tin đã mang trả cho chúng ta Rương của Chúa. Xin anh chị em xuống lấy và rước về trên đó với anh chị em.”

Rô-ma 5

Kết Quả của Việc Ðược Xưng Công Chính Bởi Ðức Tin

Vì vậy khi chúng ta được xưng công chính bởi đức tin, chúng ta được hòa thuận với Ðức Chúa Trời nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta. Nhờ Ngài chúng ta có thể cậy đức tin vào trong ân sủng này, tức ân sủng chúng ta đang hưởng;[a] và chúng ta có thể vui mừng về hy vọng được hưởng vinh hiển của Ðức Chúa Trời. Không những thế, chúng ta còn có thể vui mừng về những gian khổ của chúng ta nữa, vì biết rằng gian khổ sinh ra chịu đựng, chịu đựng sinh ra bản lĩnh, bản lĩnh sinh ra hy vọng; và hy vọng sẽ không làm chúng ta thất vọng, vì tình yêu của Ðức Chúa Trời đã tuôn đổ vào lòng chúng ta qua Ðức Thánh Linh, Ðấng Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta.[b]

Trong khi chúng ta còn hoàn toàn bất lực, đến đúng thời điểm Ðấng Christ đã chết thay cho người có tội. Vì dễ gì có ai bằng lòng chết thay cho người công chính; họa hoằn lắm mới có người chịu chết thay cho người thiện lành. Còn Ðức Chúa Trời đã biểu lộ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, trong khi chúng ta còn là người có tội, Ðấng Christ đã chết thay cho chúng ta.

Bây giờ nhờ huyết Ngài chúng ta đã được xưng công chính, thì trong tương lai cũng nhờ chính Ngài, chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ bội phần hơn biết bao.

10 Vì khi chúng ta còn là thù nghịch với Ðức Chúa Trời mà còn được giải hòa với Ngài nhờ sự chết của Con Ngài, huống chi bây giờ đã được giải hòa rồi, chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Con Ngài bội phần hơn biết bao. 11 Không những thế, nhưng chúng ta cũng vui mừng trong Ðức Chúa Trời, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, nhờ Ngài ngày nay chúng ta đã nhận được sự giải hòa.

A-đam và Ðấng Christ

12 Như vậy bởi một người, tội lỗi đã vào thế gian, rồi bởi tội lỗi, sự chết đã xâm nhập, và như thế sự chết đã lan tràn đến mọi người, vì mọi người đều đã phạm tội. 13 Số là tội lỗi đã hiện hữu trong thế gian trước khi có Luật Pháp, nhưng vì lúc đó chưa có Luật Pháp nên người ta không biết mình đã phạm tội trầm trọng như thế nào. 14 Thật vậy, từ A-đam đến Môi-se, sự chết đã ngự trị trên mọi người, kể cả những người phạm những tội không giống như tội của A-đam, người làm hình bóng về Ðấng phải đến.

15 Nhưng sự phạm tội không như ân sủng. Vì nếu chỉ bởi tội lỗi của một người mà mọi người phải chết, thì ân sủng của Ðức Chúa Trời và tặng phẩm trong ân sủng của Ngài cho nhiều người qua một người, là Ðức Chúa Jesus Christ, càng dồi dào hơn biết bao. 16 Tặng phẩm của Ðức Chúa Trời[c] cũng khác với hậu quả phạm tội của một người; một đàng thì vì một người phạm tội mà cả nhân loại phải lãnh án bị đoán phạt, còn một đàng khác nhờ ân sủng mà người ta tuy đã phạm tội nhiều lần vẫn được kể là công chính. 17 Vì nếu bởi một người phạm tội mà sự chết đã cầm quyền trên mọi người qua người ấy, thì cũng bởi một người là Ðức Chúa Jesus Christ mà sự sống sẽ cầm quyền trong những ai tiếp nhận ân sủng và tặng phẩm của sự công chính càng bội phần hơn biết bao.

18 Vậy như bởi một người phạm tội mà mọi người bị đoán phạt thể nào, thì cũng bởi một người đem lại sự công chính mà mọi người được xưng công chính và được hưởng sự sống cũng thể ấy. 19 Vì như bởi sự không vâng lời của một người mà nhiều người đã trở thành những kẻ có tội thể nào, thì cũng bởi sự vâng lời của một người mà nhiều người sẽ trở thành những người được kể là công chính cũng thể ấy.

20 Luật Pháp được ban hành để cho thấy tội lỗi đã gia tăng như thể nào; nhưng nơi nào tội lỗi gia tăng, nơi ấy ân sủng lại càng gia tăng nhiều hơn. 21 Vậy, như tội lỗi thống trị khiến người ta phải chết thể nào, thì ân sủng cũng thống trị, qua sự công chính, làm người ta được hưởng sự sống đời đời nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, cũng thể ấy.

Giê-rê-mi 43

Giê-rê-mi Bị Mang Qua Ai-cập

43 Khi Giê-rê-mi nói xong cho mọi người tất cả những lời ấy của Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, tức tất cả những lời mà Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, đã sai ông rao báo cho họ, A-xa-ri-a con của Hô-sai-a, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, và tất cả những kẻ ngang tàn nói với Giê-rê-mi, “Ông nói láo. Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, không sai ông nói, ‘Chớ đi xuống Ai-cập để sống ở đó.’ Nhưng Ba-rúc con của Nê-ri-a đã xúi giục ông chống lại chúng tôi để nộp chúng tôi vào tay quân Canh-đê hầu chúng sẽ giết chúng tôi hoặc đem chúng tôi qua lưu đày ở Ba-by-lôn.”

Vậy Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, tất cả lãnh tụ các lực lượng kháng chiến, và toàn dân lúc đó quyết định không vâng theo tiếng Chúa để ở lại trong xứ Giu-đa. Nhưng Giô-ha-nan con của Ca-rê-a và tất cả lãnh tụ các lực lượng kháng chiến đã bắt tất cả những người Giu-đa còn sót lại, tức tất cả những người đã bị xua đến các nước khác đã trở về tái lập cư trong xứ Giu-đa, gồm đàn ông, đàn bà, trẻ em, các công chúa, và mọi người mà Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ đã để ở lại với Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan, kể cả Tiên Tri Giê-rê-mi và Ba-rúc con của Nê-ri-a. Họ dẫn tất cả những người ấy vào đất Ai-cập, vì họ không vâng theo tiếng Chúa; và họ đã đến tại Ta-pan-he.

Lời Cảnh Cáo về Tai Họa

Bấy giờ có lời của Chúa đến với Giê-rê-mi ở Ta-pan-he, “Hãy bê một ít đá lớn và mang đến chôn dưới nền lát gạch ở lối vào cung điện của Pha-ra-ôn ở Ta-pan-he. Hãy làm sao để dân Giu-đa thấy việc của ngươi làm, 10 rồi nói với chúng, ‘Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, “Này, Ta sẽ sai và dẫn Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đầy tớ Ta đến nơi này. Nó sẽ đặt ngai nó trên những đá này, những đá Ta đã chôn giấu. Nó sẽ căng vương trại của nó trên những đá ấy. 11 Nó sẽ đến, tàn phá đất Ai-cập, và làm cho

Những kẻ bị định phải chết vì ôn dịch sẽ chết vì ôn dịch,
Những kẻ bị định phải đi lưu đày sẽ bị bắt đem đi lưu đày,
Những kẻ bị định phải chết bằng gươm sẽ bị giết bằng gươm.

12 Nó sẽ nổi lửa đốt rụi các đền thờ các thần tượng ở Ai-cập. Nó sẽ thiêu rụi các đền thờ ấy và mang các thần tượng ấy đem lưu đày. Nó sẽ làm sạch đất Ai-cập như người chăn chiên làm sạch bọ chét chấy rận khỏi áo quần mình;[a] rồi nó sẽ ra đi khỏi đó bình an. 13 Nó sẽ đập nát các trụ đá thờ Bết Sê-mết[b] trong đất Ai-cập. Nó sẽ thiêu rụi các đền thờ các thần tượng của Ai-cập trong lửa.”’”

Thánh Thi 19

Tác Phẩm của Ðức Chúa Trời

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Các tầng trời rao truyền vinh hiển Ðức Chúa Trời;
Bầu trời công bố công việc tay Ngài làm.
Ngày ngày truyền rao sứ điệp;
Ðêm đêm bày tỏ tri thức.
Không dùng lời, chẳng cần tiếng;
Chẳng ai nghe giọng nói chúng ra sao;
Nhưng âm thanh chúng đã lan truyền khắp đất,
Lời chúng đã vang ra đến cùng tận địa cầu.

Ngài đã lập một chỗ ở[a] cho mặt trời trong chúng.
Mặt trời như một tân lang ra khỏi loan phòng,
Như một lực sĩ hân hoan chạy trên tuyến đường mình.
Mặt trời mọc lên từ phương trời này,
Chạy vòng đến phương trời kia;
Không vật gì tránh khỏi hơi nóng của nó được.

Luật pháp của Chúa thật trọn vẹn, làm linh hồn hồi sức;
Quy tắc của Chúa thật vững chắc, khiến kẻ dại khôn ra.
Luật lệ của Chúa thật phải lẽ, làm tâm hồn vui vẻ;
Ðiều răn của Chúa thật minh bạch, khiến mắt lòng thấy rõ.
Ðộng cơ kính sợ Chúa thật trong sạch, nên còn lại đời đời;
Phán quyết của Chúa thật chính đáng, thảy đều công bình cả.
10 Những điều ấy quý hơn vàng, thật báu hơn vàng ròng;
Chúng ngọt hơn mật, thật ngọt hơn mật nhểu từ tàng ong.
11 Hơn nữa nhờ những điều ấy, đầy tớ Ngài được cảnh giác;
Nhờ giữ những điều ấy, tôi tớ Ngài được ban thưởng lớn lao.

12 Nào ai có thể tự mình biết hết mọi lầm lỗi mình?
Cầu xin Ngài tha thứ con vì những lỗi lầm con không biết.
13 Xin giữ tôi tớ Ngài khỏi cố ý phạm tội;
Xin đừng để tội lỗi cầm quyền trên con;
Ðể con sẽ không có chỗ nào đáng trách,
Và con sẽ không phạm tội nặng.

14 Nguyện lời nói của miệng con và sự suy gẫm của lòng con được đẹp ý Ngài,
Lạy Chúa, Vầng Ðá của con và Ðấng Cứu Chuộc của con.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang