Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Các Vua 18

Sứ Ðiệp của Tiên Tri Ê-li cho A-háp

18 Sau nhiều ngày, vào năm hạn hán thứ ba, có lời của Chúa đến với Ê-li rằng, “Hãy đi gặp A-háp. Ta sẽ cho mưa xuống đất trở lại.” Vậy Ê-li đi gặp A-háp. Lúc ấy nạn đói đang hoành hành tại Sa-ma-ri. A-háp gọi Ô-ba-đi-a quan tổng quản hoàng cung đến. (Ô-ba-đi-a là người rất kính sợ Chúa. Khi Giê-xê-bên giết hại các tiên tri của Chúa, Ô-ba-đi-a đã đem một trăm vị tiên tri đi giấu, năm mươi người trong một hang động, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ.) A-háp nói với Ô-ba-đi-a, “Ngươi hãy đi khắp xứ, hãy đến các suối và các khe, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ để giữ cho ngựa và lừa sống, để chúng ta khỏi phải giết thịt các đàn súc vật.” Vậy họ chia nhau đi khắp xứ. A-háp đi một hướng, còn Ô-ba-đi-a đi một hướng khác.

Khi Ô-ba-đi-a đang đi đường, nầy, Ê-li ra gặp ông. Ô-ba-đi-a nhận ra Ê-li, ông liền sấp mình xuống đất và nói, “Thưa có phải chúa của tôi là Ê-li đó chăng?”

Ê-li trả lời, “Chính tôi đây. Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.”

Ô-ba-đi-a đáp, “Tôi có tội gì mà ngài muốn trao tôi vào tay A-háp để ông ấy giết tôi? 10 Chúa, Ðức Chúa Trời hằng sống của ngài, làm chứng, chẳng có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ tôi không sai người đến kiếm ngài. Khi người ta bảo rằng ngài không có ở đó, ông ấy đòi nước đó hoặc vương quốc đó phải thề rằng họ không hề thấy ngài. 11 Nhưng bây giờ ngài bảo tôi, ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.’ 12 Nhưng biết đâu vừa khi tôi rời khỏi ngài, Thần của Chúa sẽ đem ngài đi đến nơi nào tôi không biết. Rồi khi tôi đến nói với A-háp, ông ấy đến mà không thấy ngài, ông ấy chắc chắn sẽ giết tôi, mặc dù tôi đây, tôi tớ ngài, đã kính sợ Chúa từ thuở nhỏ. 13 Người ta há không nói cho chúa của tôi biết rằng tôi đã làm gì khi Giê-xê-bên giết hại các tiên tri của Chúa sao, thể nào tôi đã đem giấu một trăm vị tiên tri của Chúa, năm mươi người trong một hang động, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ sao? 14 Bây giờ ngài bảo tôi, ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây,’ ông ấy sẽ giết tôi.”

15 Nhưng Ê-li đáp, “Có Chúa các đạo quân hằng sống, Ðấng tôi đứng trước mặt Ngài để phục vụ, làm chứng, chắc chắn hôm nay tôi muốn gặp chủ của ông.” 16 Vậy Ô-ba-đi-a đi gặp Vua A-háp và báo cho ông ấy biết. A-háp liền đi gặp Ê-li.

Tiên Tri Ê-li và A-háp

17 Khi A-háp thấy Ê-li, A-háp nói với ông, “Ngươi, kẻ gây rối cho I-sơ-ra-ên, có phải ngươi đó chăng?”

18 Ê-li đáp, “Không phải tôi gây rối cho I-sơ-ra-ên đâu, nhưng chính là ngài và nhà cha ngài, vì ngài và cha ngài đã bỏ các điều răn của Chúa mà đi theo các thần Ba-anh. 19 Bây giờ xin ngài triệu tập toàn dân I-sơ-ra-ên lại, để gặp tôi trên Núi Cạt-mên. Xin ngài cũng đem bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của A-sê-ra, những kẻ được Giê-xê-bên cấp dưỡng, cùng đến.”[a]

Ê-li Thắng Các Tiên Tri Ba-anh

20 Vậy A-háp sai người đi khắp I-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại Núi Cạt-mên. 21 Ê-li đến trước toàn dân và nói, “Các người cứ đi khập khiễng hàng hai cho đến chừng nào? Nếu Chúa là Ðức Chúa Trời, hãy theo Ngài; còn nếu Ba-anh là Ðức Chúa Trời, hãy theo hắn.” Nhưng dân chúng lặng thinh.

22 Bấy giờ Ê-li nói với dân chúng, “Tôi, chỉ một mình tôi, là tiên tri của Chúa còn sót lại; nhưng ở đây có bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh. 23 Bây giờ hãy cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn trước một con cho họ. Hãy sả thịt con bò đó ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ sả thịt con bò kia và chất nó trên củi, nhưng cũng không châm lửa. 24 Rồi các ông hãy kêu cầu danh thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. Vị thần nào đáp lời bằng lửa, thì vị đó chính là Ðức Chúa Trời.”

Toàn thể dân chúng hiện diện nói, “Ðề nghị rất hữu lý!”

25 Bấy giờ Ê-li nói với các tiên tri của Ba-anh, “Các ông hãy chọn lấy cho mình một con bò và sả thịt nó trước, vì các ông đông người; rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được châm lửa.” 26 Vậy họ bắt một con bò được đem đến, sả thịt nó ra, rồi kêu cầu danh Thần Ba-anh từ sáng đến trưa. Họ cầu rằng, “Lạy Thần Ba-anh, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng chẳng có tiếng nào, cũng chẳng có ai trả lời. Họ nhảy khập khiễng xung quanh bàn thờ họ đã dựng.

27 Ðến trưa Ê-li chế nhạo họ rằng, “Hãy kêu cầu lớn hơn chút nữa. Ba-anh là thần thật đó. Có thể thần ấy đang tĩnh tâm hay đang bận việc, không chừng thần ấy bị kẹt phải đi xa, hay đang ngủ. Hãy đánh thức thần ấy dậy.” 28 Nghe thế họ lại càng kêu cầu lớn hơn, và theo như thói tục của họ, họ lấy gươm và giáo rạch mình họ đến chảy máu. 29 Ðến quá trưa, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri theo kiểu đó cho đến giờ dâng của tế lễ buổi chiều, nhưng chẳng có tiếng nào đáp lại, cũng chẳng ai trả lời, và chẳng ai quan tâm đến.

30 Bấy giờ Ê-li nói với toàn dân, “Hãy đến gần tôi.” Toàn dân kéo lại gần ông. Trước hết, ông sửa lại bàn thờ Chúa đã bị đổ nát. 31 Ê-li lấy mười hai phiến đá, theo số gia tộc của các con trai Gia-cốp, người mà lời Chúa đã phán, “I-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.” 32 Ê-li dùng các phiến đá đó xây lại bàn thờ cho danh Chúa. Kế đó, ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ, rộng cỡ chứa được hai thúng[b] hạt giống. 33 Kế đến ông sắp củi trên bàn thờ. Ðoạn ông sả thịt con bò ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi. Sau đó ông bảo, “Hãy múc đầy bốn bình nước, rồi đem đổ nước trên của lễ thiêu và củi. 34 Ông bảo họ, “Hãy làm lần thứ nhì.” Họ làm lần thứ nhì. Ông lại bảo họ, “Hãy làm lần thứ ba.” Họ làm lần thứ ba, 35 đến nỗi nước chảy ướt đẫm quanh bàn thờ và đầy tràn cái mương.

36 Ðến giờ dâng của lễ buổi chiều, Tiên Tri Ê-li đến gần và cầu nguyện rằng, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, I-sác, và I-sơ-ra-ên. Hôm nay xin Ngài cho mọi người biết rằng Ngài chính là Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, và con đây là đầy tớ Ngài, và con làm mọi sự nầy là do Ngài phán bảo. 37 Lạy Chúa, xin nhậm lời con, để dân nầy biết rằng chính Ngài là Ðức Chúa Trời, Chúa ôi, và Ngài sẽ làm cho lòng dân nầy quay trở lại.”

38 Bấy giờ lửa của Chúa từ trời giáng xuống, thiêu rụi của lễ thiêu, củi, đá, bụi đất, và làm khô hết nước trong mương. 39 Khi toàn dân thấy vậy, họ liền sấp mặt xuống đất và nói, “Chúa là Ðức Chúa Trời! Chúa là Ðức Chúa Trời!”

40 Ê-li nói với họ, “Hãy bắt tất cả các tiên tri của Ba-anh. Ðừng để thoát một ai.” Họ liền bắt chúng. Ê-li đem chúng xuống Khe Kít-sôn và giết chúng tại đó.

Cơn Hạn Hán Chấm Dứt

41 Ê-li nói với A-háp, “Xin mời ngài đi lên, ăn, và uống. Vì tôi nghe có tiếng mưa rào.” 42 Vậy A-háp đi lên, ăn, và uống. Ê-li lên đỉnh Núi Cạt-mên. Tại đó ông sấp mặt xuống đất, giữa hai đầu gối. 43 Ông nói với người đầy tớ của ông, “Con hãy đi lên và nhìn về hướng biển.”

Người ấy đi lên, nhìn, rồi trở lại nói, “Con chẳng thấy gì cả.”

Ông bảo, “Con hãy đi lên trở lại và làm bảy lần như thế.”

44 Lần thứ bảy người ấy nói, “Kìa, con thấy một đám mây, cỡ bằng bàn tay, đang nổi lên ngoài biển.”

Ông bảo, “Con hãy đến nói với A-háp, ‘Xin ngài thắng xe và đi xuống mau, kẻo mưa sẽ giữ ngài ở lại đây.’”

45 Chẳng mấy chốc, mây đen kéo đến giăng khắp bầu trời, và gió cuồn cuộn thổi đến, và một trận mưa lớn đổ xuống. A-háp vội vàng lên xe, chạy đến Giê-rê-ên. 46 Tay của Chúa đặt trên Ê-li. Ông nịt dây lưng của ông lại và chạy trước xe A-háp cho đến lúc vào thành Giê-rê-ên.

I Thê-sa-lô-ni-ca 1

Lời Mở Ðầu

Phao-lô, Sin-va-nu, và Ti-mô-thê kính gởi Hội Thánh Thê-sa-lô-ni-ca trong Ðức Chúa Trời là Cha và trong Ðức Chúa Jesus Christ. Nguyện xin ân sủng và bình an đến với anh chị em.

Cảm Tạ Chúa về Ðức Tin của Tín Hữu Thê-sa-lô-ni-ca

Chúng tôi hằng cảm tạ Ðức Chúa Trời về tất cả anh chị em và thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. Trước mặt Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi nhớ đến công việc vì đức tin, lao khổ vì yêu thương, và sự kiên trì vì hy vọng của anh chị em trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta.

Thưa anh chị em[a] được Ðức Chúa Trời thương yêu, chúng tôi biết rằng Ngài đã chọn anh chị em, vì Tin Mừng chúng tôi đã rao truyền cho anh chị em không phải chỉ đến bằng lời nói, nhưng cũng bằng quyền năng, bằng Ðức Thánh Linh, và bằng một niềm tin quả quyết. Chắc anh chị em đã biết rồi, vì lợi ích của anh chị em, chúng tôi là những người như thế nào khi sống giữa anh chị em. Anh chị em đã bắt chước chúng tôi và noi theo gương Chúa, vì mặc dù ở giữa nhiều khốn khó, anh chị em đã tiếp nhận Ðạo[b] với niềm vui của Ðức Thánh Linh, đến nỗi anh chị em đã trở thành gương sáng cho tất cả các tín hữu ở vùng Ma-xê-đô-ni-a và vùng A-chai. Vì Ðạo[c] Chúa từ anh chị em đã vang ra không những chỉ ở vùng Ma-xê-đô-ni-a và vùng A-chai, nhưng đức tin của anh chị em nơi Ðức Chúa Trời đã được đồn ra khắp nơi đến nỗi chúng tôi không cần phải nói thêm gì nữa. Vì chính những người ở các nơi đó đã thuật lại thể nào anh chị em đã tiếp đón chúng tôi, và thể nào anh chị em đã từ bỏ các thần tượng và quay về với Ðức Chúa Trời, để thờ phượng Ðức Chúa Trời hằng sống và chân thật, 10 và để chờ đợi Con Ngài từ trời trở lại, tức Ðấng đã được Ngài làm cho sống lại từ cõi chết, đó là Ðức Chúa Jesus, Ðấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sẽ đến.

Ê-xê-chi-ên 48

Phần Ðất của Các Chi Tộc

48 “Ðây là tên các chi tộc và phần đất của chúng: Từ địa đầu biên giới ở phía bắc, phần đất nằm dọc theo con đường đến Hết-lôn, từ Lê-bô Ha-mát cho đến Ha-xa Ê-nan, nằm nơi biên giới của Ða-mách với Ha-mát ở về phía bắc, chạy dài từ đông sang tây, đó là phần của Ðan. Phần của A-se sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ðan và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Náp-ta-li sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của A-se và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ma-na-se sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Náp-ta-li và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ép-ra-im sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ma-na-se và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ru-bên sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ép-ra-im và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Giu-đa sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ru-bên và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây.

Phía nam lãnh thổ của Giu-đa, từ đông sang tây, sẽ là khu vực các ngươi biệt riêng ra thánh, chiều rộng sẽ là mười bốn ký-lô mét rưỡi,[a] còn chiều dài từ đông sang tây sẽ bằng chiều dài ranh giới của các chi tộc giáp giới, còn đền thánh sẽ nằm ở trung tâm. Khu vực đặc biệt các ngươi biệt riêng ra cho Chúa sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[b] và rộng gần sáu ký-lô mét.[c] 10 Ðây là khu vực thánh, dành cho các tư tế ở. Phía bắc dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[d] phía tây rộng gần sáu ký-lô mét,[e] phía đông rộng gần sáu ký-lô mét,[f] và phía nam dài mười bốn ký-lô mét rưỡi.[g] Khu đền thánh của Chúa nằm ở trung tâm. 11 Ðây sẽ là phần dành cho các tư tế thuộc dòng dõi của Xa-đốc, những kẻ đã được biệt riêng ra thánh, những kẻ đã trung thành vâng giữ trách nhiệm Ta giao phó, chúng đã không lìa bỏ Ta để đi sai lạc như người Lê-vi đã làm khi dân I-sơ-ra-ên lìa bỏ Ta mà đi sai lạc. 12 Ðó sẽ là phần đặc biệt được ban cho chúng trong khu vực thánh, trong phần đất cực thánh của cả nước. Phần đất của chúng sẽ giáp giới với lãnh thổ của người Lê-vi. 13 Dọc theo lãnh thổ của các tư tế, người Lê-vi sẽ có một phần dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[h] và rộng gần sáu ký-lô mét.[i] Toàn thể phần đất dành cho chúng sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[j] và rộng gần sáu ký-lô mét.[k] 14 Chúng sẽ không được bán hoặc trao đổi hoặc chuyển nhượng phần đất cực kỳ quý báu đó, vì nó đã thành đất thánh thuộc về Chúa.

15 Phần còn lại với chiều rộng gần ba ký-lô mét[l] và chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[m] sẽ được dùng vào việc công của thành phố, như các dinh thự và các công viên. Kinh thành sẽ tọa lạc ở trung tâm. 16 Ðây sẽ là địa phận của kinh thành: phía bắc hai ký-lô mét sáu,[n] phía nam hai ký-lô mét sáu,[o] phía đông hai ký-lô mét sáu,[p] và phía tây hai ký-lô mét sáu.[q] 17 Vùng đất trống làm công viên chung quanh kinh thành, phía bắc rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[r] phía nam rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[s] phía đông rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[t] phía tây rộng một trăm bốn mươi lăm mét.[u] 18 Phần đất còn lại, giáp giới với khu vực thánh, dọc theo chiều dài của vùng đất thánh, dài gần sáu ký-lô mét[v] phía đông và gần sáu ký-lô mét[w] phía tây. Vùng đất đó sẽ được dùng làm ruộng rẫy để cung cấp lương thực cho những người làm việc trong kinh thành. 19 Những người từ mọi chi tộc của I-sơ-ra-ên đến làm việc tại kinh thành sẽ canh tác đất ấy. 20 Toàn thể vùng ấy có hình vuông, mười bốn ký-lô mét rưỡi[x] chiều ngang và mười bốn ký-lô mét rưỡi[y] chiều dọc, trong đó bao gồm khu vực thánh và khu vực kinh thành.

21 Phần đất còn lại ở hai bên, ngoại trừ khu vực thánh và khu vực kinh thành, sẽ thuộc về người cầm quyền trong nước. Bên phía đông sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[z] kể từ ranh giới của khu vực thánh chạy về hướng đông cho đến ranh giới của chi tộc kế cận. Bên phía tây sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[aa] kể từ ranh giới của khu vực thánh chạy về hướng tây cho đến ranh giới của chi tộc kế cận. Ðó là hai phần đất thuộc về người cầm quyền trong nước, với khu vực thánh và khu đền thánh ở chính giữa. 22 Như vậy phần đất của người Lê-vi và của kinh thành nằm giữa hai phần đất thuộc về người cầm quyền trong nước. Phần đất của người cầm quyền trong nước sẽ nằm giữa lãnh thổ của Giu-đa và lãnh thổ của Bên-gia-min.

23 Về các chi tộc còn lại: Phần của Bên-gia-min sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của người cầm quyền trong nước và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 24 Phần của Si-mê-ôn sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Bên-gia-min và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 25 Phần của I-sa-ca sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Si-mê-ôn và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 26 Phần của Xê-bu-lun sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của I-sa-ca và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 27 Phần của Gát sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Xê-bu-lun và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 28 Ranh giới phía nam của Gát sẽ là biên giới ở miền nam. Biên giới ấy chạy từ Ta-ma đến các nguồn nước ở Mê-ri-ba trong vùng Ca-đe, rồi từ đó tiếp tục chạy dọc theo Suối Ai-cập ra đến Ðịa Trung Hải. 29 Ðó là xứ sở các ngươi sẽ bắt thăm chia nhau làm sản nghiệp cho các chi tộc của I-sơ-ra-ên, và đó sẽ là các phần của chúng,” Chúa Hằng Hữu phán.

Các Cổng của Kinh Thành

30 “Ðây là các cổng ra vào của kinh thành: Về phía bắc, tường thành dài hai ký-lô mét sáu[ab] 31 –các cổng của thành sẽ được đặt tên theo tên các chi tộc của I-sơ-ra-ên– ba cổng ở phía bắc: Cổng Ru-bên, Cổng Giu-đa, và Cổng Lê-vi. 32 Về phía đông, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ac] với ba cổng: Cổng Giô-sép, Cổng Bên-gia-min, và Cổng Ðan. 33 Về phía nam, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ad] với ba cổng: Cổng Si-mê-ôn, Cổng I-sa-ca, và Cổng Xê-bu-lun. 34 Về phía tây, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ae] với ba cổng: Cổng Gát, Cổng A-se, và Cổng Náp-ta-li.

35 Chu vi của thành gần mười ký-lô mét rưỡi.[af] Tên của thành từ ngày đó trở đi sẽ là ‘Chúa Ở Ðó.’”

Thánh Thi 104

Hãy ca ngợi Chúa, hỡi linh hồn ta!
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài thật vĩ đại thay!
Ngài mặc bằng sự huy hoàng và sự uy nghi.
Ngài bao phủ mình bằng ánh sáng như chiếc áo choàng;
Ngài giăng các tầng trời ra như căng một cái trại.
Ngài đặt các đà ngang cho các thiên cung của Ngài trên nước;
Ngài dùng mây làm xa giá;
Ngài bước đi trên cánh gió;
Ngài dùng gió làm các sứ giả Ngài,
Lửa hừng làm bầy tôi hầu hạ Ngài.

Ngài đặt trái đất trên nền của nó,
Ðể đến đời đời nó chẳng chuyển lay.
Ngài bao phủ đất bằng biển sâu như phủ một chiếc áo;
Các nguồn nước lại đứng trên các ngọn núi cao.
Khi Ngài quở trách, chúng thất kinh chạy trốn;
Nghe tiếng sấm sét của Ngài, chúng vụt chạy cho xa.
Núi đồi trồi lên, thung lũng sụp xuống,
Ðúng vào nơi Ngài định cho chúng.
Ngài định giới hạn để nước không thể vượt qua,
Hầu không được phủ ngập mặt đất nữa.

10 Trong các thung lũng Ngài ban các dòng nước ngọt;
Chúng lượn quanh tuôn chảy giữa núi đồi;
11 Chúng cung cấp thức uống cho mọi sinh vật trong đồng;
Nhờ chúng những lừa rừng được thỏa mãn cơn khát.
12 Bên cạnh chúng chim trời làm tổ,
Cất tiếng hót ca giữa các cành cây.
13 Từ thiên cung Ngài đổ nước xuống tưới các núi rừng;
Trái đất được no nê nhờ bông trái của công việc Ngài.

14 Ngài khiến cỏ xanh mọc lên cho súc vật,
Và rau trái sinh ra để phục vụ loài người;
Từ ruộng đất người ta có thể đem về cho mình thực phẩm,
15 Rồi chế thành rượu để uống cho lòng vui vẻ,
Chế thành dầu để xức cho mặt mày tươi sáng,
Và làm cơm bánh để ăn cho vững mạnh lòng người.
16 Những cây cối của Chúa đều được nước uống no nê,
Kể cả những cây bá hương Ngài đã trồng ở Li-băng,
17 Cùng những cây cối khác, nơi các chim trời làm tổ,
Luôn cả những cây bách, nơi chim hạc chọn làm nhà.

18 Ngài dựng nên những núi cao cho các dê rừng làm chỗ ở;
Các gành đá cheo leo cho các chuột núi nương thân.
19 Ngài dựng nên mặt trăng để ấn định các mùa;
Còn mặt trời tự biết khi nào lặn xuống.
20 Ngài dựng nên bóng tối, và nó trở thành ban đêm;
Ấy là khi các thú rừng đi ra săn mồi.
21 Các sư tử tơ gầm rống tìm mồi,
Và tìm kiếm thức ăn từ Ðức Chúa Trời.
22 Ðến khi mặt trời mọc lên chúng lại rút về,
Và nằm xuống trong hang.
23 Người ta đi ra làm việc,
Và làm lụng cho đến hoàng hôn.

24 Chúa ôi, công việc của Ngài thật nhiều thay!
Ngài đã dựng nên tất cả bằng sự khôn ngoan của Ngài;
Trái đất đầy dẫy muôn vật do Ngài dựng nên.
25 Kìa là đại dương sâu rộng mênh mông,
Trong đó chứa nhung nhúc biết bao sinh vật;
Thật là vô sốsinh vật lớn và nhỏ.
26 Rồi cũng có các ghe thuyền tàu bè qua lại,
Và con quái vật[a] Ngài đã dựng nên đùa chơi trong đó.

27 Tất cả đều trông chờ nơi Ngài,
Ðể Ngài ban cho chúng vật thực phải thì.
28 Khi Ngài cho ăn, chúng liền tụ lại;
Khi Ngài sè tay ra, chúng được ăn uống no nê.
29 Khi Ngài ẩn mặt, chúng hoảng kinh bối rối;
Khi Ngài lấy hơi thở chúng đi, chúng liền chết và trở về cát bụi.
30 Khi Ngài ban Thần Khí Ngài ra, chúng được dựng nên,
Và Ngài làm cho mặt đất mới lại.

31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn đến đời đời.
Nguyện Chúa vui thích về các công việc Ngài.
32 Ngài nhìn vào trái đất, nó run lên lẩy bẩy;
Ngài đụng đến núi non, chúng bốc khói mịt mù.

33 Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ ca tụng Chúa bấy lâu;
Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ ca ngợi Ðức Chúa Trời tôi chừng nấy.
34 Nguyện những suy nghĩ của tôi được đẹp lòng Ngài;
Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui mừng trong Chúa.
35 Nguyện những kẻ tội lỗi bị diệt trừ khỏi mặt đất;
Nguyện những kẻ ác không còn nữa.

Hãy chúc tụng Chúa, hỡi linh hồn ta,
Hãy ca ngợi Chúa!

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang