Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Các Vua 10

Nữ Hoàng Sê-ba Ðến Thăm Sa-lô-môn

(2 Sử 9:1-12)

10 Khi nữ hoàng của Sê-ba nghe đồn về danh tiếng của Sa-lô-môn, tức danh tiếng nhờ danh Chúa ông có được, bà đến thăm và đưa ra những câu hỏi hóc búa để thử tài ông. Bà đến Giê-ru-sa-lem với một đoàn tùy tùng rất đông. Bà dẫn theo một đoàn lạc đà chở các thứ hương liệu, rất nhiều vàng, và các loại ngọc thạch. Khi gặp Sa-lô-môn, bà nói cho ông nghe tất cả những gì bà đã suy nghĩ trong lòng. Sa-lô-môn giải đáp tất cả các câu hỏi của bà. Chẳng có điều gì là quá bí ẩn mà ông không giải nghĩa được cho bà. Khi nữ hoàng của Sê-ba đã chứng kiến tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, và cung điện ông đã xây, thức ăn trên bàn ông, cách tổ chức làm việc của quần thần ông, cung cách phục vụ và triều phục họ mặc, các quan dâng thức uống cho ông và y phục của họ, và các của lễ thiêu ông dâng trong Ðền Thờ Chúa, bà kinh hồn. Bà nói với ông, “Những gì tôi đã nghe nói trong nước tôi về các thành quả và sự khôn ngoan của ngài đều là thật, nhưng tôi không tin những điều ấy, cho đến khi tôi đến đây và trông thấy tận mắt. Những điều tôi nghe chỉ là phân nửa. Sự khôn ngoan và giàu sang của ngài thật vượt quá những gì tôi đã nghe nói. Phước hạnh thay cho những người của ngài![a] Phước hạnh thay cho bầy tôi của ngài, những người thường xuyên chầu chực trước mặt ngài và được nghe sự khôn ngoan của ngài! Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của ngài, Ðấng đã lấy làm hài lòng nơi ngài và đặt ngài trên ngai của I-sơ-ra-ên! Vì Chúa yêu thương I-sơ-ra-ên mãi mãi nên đã lập ngài làm vua để thi hành công lý và lẽ công chính.”

10 Sau đó bà tặng ông hơn bốn tấn[b] vàng, rất nhiều hương liệu, và ngọc thạch. Chưa bao giờ có ai đem hương liệu đến nhiều như số hương liệu của nữ hoàng của Sê-ba tặng Vua Sa-lô-môn.

11 Ngoài ra đoàn tàu của Hi-ram đem vàng từ Ô-phia về cũng chở theo rất nhiều gỗ đàn hương và ngọc thạch từ Ô-phia về. 12 Vua lấy các gỗ đàn hương đó làm các cột trang hoàng trong Ðền Thờ Chúa và trong hoàng cung, cùng làm các đàn lia và các hạc cầm cho các nhạc sĩ. Thứ gỗ đàn hương ấy không thấy chở đến nữa, và cũng không còn thấy nữa cho đến ngày nay.

13 Vua Sa-lô-môn tặng nữ hoàng của Sê-ba bất cứ món gì bà thích, ngoài những gì ông đã tặng cho bà theo sự giàu sang phú quý của ông. Sau đó bà và đoàn tùy tùng của bà lên đường trở về nước của bà.

Sự Giàu Sang của Sa-lô-môn

(2 Sử 9:13-24)

14 Số vàng Vua Sa-lô-môn thâu nhận hàng năm cân nặng trên hai tấn rưỡi,[c] 15 ngoài số lợi tức thu được từ các thương gia và những người buôn bán, và từ tất cả các vua Ả-rập và các quan trưởng ở các tỉnh đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần bảy ký[d] vàng. 17 Vua cũng cho làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ hơn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần hai ký[e] vàng. Rồi vua cho đặt những thuẫn đó trong cung Rừng Li-băng. 18 Vua cũng cho làm một chiếc ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. 19 Chiếc ngai có sáu bậc cấp. Phần cao nhất của ngai là chỗ dựa lưng có hình tròn. Hai bên chỗ ngồi là hai chỗ gác tay; bên cạnh hai chỗ gác tay có tượng hai con sư tử. 20 Ngoài ra còn có tượng mười hai con sư tử khác, mỗi con đứng ở mỗi đầu của sáu bậc cấp. Chưa hề có vương quốc nào làm ngai giống như vậy. 21 Tất cả các ly chén Vua Sa-lô-môn dùng để uống đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong Cung Ðiện Rừng Li-băng đều bằng vàng ròng. Không có vật chi làm bằng bạc, vì trong thời của Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. 22 Số là vua có một đoàn tàu ở Tạt-si đi biển chung với đoàn tàu của Hi-ram. Cứ ba năm đoàn tàu ở Tạt-si ấy trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, khỉ, và công.

23 Vì thế Vua Sa-lô-môn trỗi hơn các vua trên đất về giàu có và khôn ngoan. 24 Thiên hạ đều mong được diện kiến Vua Sa-lô-môn, để được nghe sự khôn ngoan mà Ðức Chúa Trời đã ban cho tâm trí ông. 25 Ai đến cũng đem theo lễ vật, nào là các vật bằng bạc, bằng vàng, quần áo, vũ khí, hương liệu, ngựa, và lừa, cứ thế hết năm nầy đến năm khác.

26 Sa-lô-môn cũng thâu thập các xe chiến mã và ngựa. Ông có một ngàn bốn trăm xe chiến mã và mười hai ngàn ngựa. Ông cho chúng ở trong các thành của các đơn vị sử dụng các xe chiến mã, trú đóng gần bên vua tại Giê-ru-sa-lem. 27 Vua làm cho bạc trở nên tầm thường như sỏi đá và gỗ bá hương nhiều như gỗ cây sung mọc ở các chân đồi. 28 Sa-lô-môn cho mua ngựa từ Ai-cập và Cư-ê về. Những người phụ trách mậu dịch của vua đến tận Cư-ê trả giá mua về. 29 Một xe chiến mã mua từ Ai-cập giá gần bảy ký[f] bạc, còn một con ngựa giá trên một ký bảy.[g] Sau đó các thương gia của hoàng gia đem bán lại cho các vua dân Hít-ti và các vua dân A-ram.

Phi-líp 1

Lời Mở Ðầu

Phao-lô và Ti-mô-thê, các đầy tớ của Ðức Chúa Jesus Christ, kính gởi tất cả các thánh đồ trong Ðức Chúa Jesus Christ, cùng các vị giám mục, và các chấp sự ở Phi-líp. Nguyện xin ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, đến cùng anh chị em.

Cảm Tạ và Cầu Nguyện

Mỗi khi nhớ đến anh chị em, tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi. Mỗi khi cầu nguyện cho tất cả anh chị em, tôi luôn luôn cầu nguyện với lòng vui mừng, vì anh chị em đã dự phần với tôi trong nỗ lực truyền bá Tin Mừng từ ngày đầu tiên cho đến bây giờ. Tôi có niềm tin quả quyết nầy, đó là Ðấng đã bắt đầu làm những việc tốt đẹp trong anh chị em sẽ tiếp tục công việc của Ngài cho đến khi hoàn tất trong ngày của Ðức Chúa Jesus Christ. Tôi nghĩ về tất cả anh chị em như vậy cũng đúng thôi, bởi vì anh chị em luôn ở trong lòng tôi. Dù khi tôi mang xiềng xích hay khi tôi biện hộ và chứng thực chân lý của Tin Mừng, tất cả anh chị em đều dự phần vào ân sủng với tôi. Vì Ðức Chúa Trời có thể làm chứng cho tôi rằng tôi thương nhớ anh chị em bằng tình yêu của Ðức Chúa Jesus Christ biết bao.

Ðiều tôi cầu nguyện là tình yêu của anh chị em mỗi ngày một gia tăng, để anh chị em có kiến thức sâu sắc và nhận xét chính xác, 10 giúp anh chị em có thể xác định điều nào là tốt nhất, hầu trong ngày của Ðấng Christ anh chị em được trong sạch và vẹn toàn, 11 đầy những trái của đức công chính đến từ Ðức Chúa Jesus Christ, đem vinh hiển và ca ngợi về Ðức Chúa Trời.

Ðạo Chúa Phát Triển giữa Nghịch Cảnh

12 Thưa anh chị em,[a] tôi muốn anh chị em biết rằng những gì xảy ra cho tôi đã giúp cho Tin Mừng thêm phát triển, 13 đến nỗi cả quân đoàn bảo vệ hoàng cung và mọi người khác đều biết rằng tôi vì Ðấng Christ mà mang xiềng xích, 14 và khi biết tôi bị xiềng xích, nhiều anh chị em tin Chúa càng mạnh mẽ hơn và càng dạn dĩ rao giảng lời Đức Chúa Trời[b] hơn, chẳng sợ hãi gì.

15 Thật ra một số người rao giảng Ðấng Christ vì ganh tị và cạnh tranh, nhưng một số khác rao giảng vì ý tốt. 16 Những người rao giảng vì ý tốt làm thế vì tình yêu, biết rằng tôi được bổ nhiệm để binh vực Tin Mừng; 17 còn những người rao giảng Ðấng Christ vì tham vọng cá nhân[c] thay vì động cơ trong sạch, thiết tưởng chỉ tạo thêm khổ cho tôi trong khi mang xiềng xích thôi. 18 Nhưng rồi sao? Ðàng nào cũng được, dù giả vờ hay thành thật, Ðấng Christ vẫn được rao giảng; và như thế là tôi vui rồi, phải, và tôi sẽ tiếp tục vui, 19 vì tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh chị em và nhờ sự giúp đỡ của Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Jesus Christ, tôi sẽ sớm được giải thoát.[d]

20 Tôi thiết tha mong đợi và hy vọng rằng tôi sẽ không bị hổ thẹn vì bất cứ lý do gì, nhưng bây giờ hay lúc nào cũng thế, tôi nói cách dạn dĩ, để dù sống hay chết, Ðấng Christ vẫn được tôn cao trong thân xác tôi. 21 Vì đối với tôi, sống là Ðấng Christ, và chết là lợi. 22 Nhưng nếu tôi được tiếp tục sống trong thân xác, có nghĩa là tôi sẽ làm việc sao cho có kết quả, tôi thật không biết phải chọn điều nào. 23 Tôi đang bị giằng co giữa hai điều: một đàng, tôi muốn được ra đi để ở với Ðấng Christ, đó là điều tốt hơn cho tôi; 24 một đàng khác, tôi được tiếp tục ở lại trong thân xác nầy, đó là điều cần hơn cho anh chị em. 25 Vì có niềm tin quả quyết về điều thứ hai nầy, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ tiếp tục sống với tất cả anh chị em để giúp anh chị em tăng trưởng và vui vẻ trong đức tin. 26 Như thế, khi tôi trở lại thăm anh chị em, thì vì cớ tôi, anh chị em có thể hãnh diện nhiều hơn trong Ðức Chúa Jesus Christ.

Chiến Ðấu cho Ðức Tin

27 Tôi chỉ mong anh chị em sống xứng đáng với Tin Mừng của Ðấng Christ, để hoặc đến thăm anh chị em, hoặc vắng mặt, tôi có thể nghe tin về anh chị em rằng anh chị em đang đứng vững, cùng một tinh thần, cùng một chí hướng, chiến đấu bên nhau cho đức tin của Tin Mừng, 28 và không sợ những kẻ chống đối anh chị em bất cứ điều gì. Đây là dấu hiệu của sự hủy diệt sẽ đến với họ, còn anh chị em sẽ được cứu, và đó cũng là điều đến từ Ðức Chúa Trời, 29 vì Ðức Chúa Trời không những đã ban cho anh chị em đặc ân tin Ðấng Christ, nhưng cũng chịu khổ vì Ngài nữa, 30 tức tham dự cùng một cuộc chiến mà anh chị em đã thấy tôi đương đầu trước kia, và nay vẫn còn nghe tôi đang tiếp tục.

Ê-xê-chi-ên 40

Khải Tượng về Ðền Thờ Mới

40 Vào năm thứ hai mươi lăm kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, vào ngày mồng mười của tháng giêng năm ấy, tức năm thứ mười bốn sau khi thành thánh thất thủ; vào chính ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và Ngài đem tôi đến đó. Ngài đem tôi về trong đất I-sơ-ra-ên bằng các khải tượng của Ðức Chúa Trời. Ngài đặt tôi xuống trên một núi rất cao; về hướng nam núi ấy, có gì trông giống như một cái thành. Khi Ngài đem tôi về đến đó, này, đã có sẵn một người ở đó. Diện mạo người ấy như đồng bóng láng. Trong tay người ấy cầm một sợi dây bằng vải và một cây đo. Người ấy đứng ở cổng. Người ấy nói với tôi, “Hỡi con người, hãy nhìn cho kỹ và hãy nghe cho rõ. Hãy chú tâm vào những gì ta sẽ chỉ cho ngươi, vì ngươi được đem về đây để ta chỉ điều ấy cho ngươi. Hãy công bố tất cả những gì ngươi thấy cho nhà I-sơ-ra-ên.”

Cổng Ðông của Tường Quanh Sân

Này, có một bức tường bao quanh khu vực bên ngoài đền thờ. Cây đo trong tay người ấy dài khoảng ba mét rưỡi.[a] Người ấy đo bề dày của bức tường, một cây; chiều cao, một cây. Sau đó người ấy đến cổng hướng về phía đông, đi lên các bậc thềm, và đo ngạch cổng, ngạch rộng một cây, và chiều kia dày một cây. Nơi ấy có các trạm gác, mỗi trạm bề ngang một cây và bề dọc một cây. Khoảng cách giữa các trạm chừng ba mét.[b] Ngạch cổng, nơi dẫn vào tiền sảnh, phía trong của ngạch cổng, một cây. Sau đó người ấy đo phía trong của tiền sảnh ở cổng, một cây. Kế đó người ấy đo tiền sảnh ở cổng, khoảng bốn mét rưỡi;[c] các cây trụ, trên một mét;[d] đó là phía trong tiền sảnh của cổng. 10 Bên trong cổng phía đông có các trạm gác, ba trạm bên nầy và ba trạm bên kia. Các trạm ấy đều có kích thước như nhau. Các trụ bổ tường ở mỗi bên cũng có kích thước như nhau. 11 Sau đó người ấy đo chiều rộng của lối vào cổng, gần sáu mét,[e] chiều dài của cổng, khoảng bảy mét rưỡi.[f] 12 Trước mỗi trạm gác có một bức tường, bên nầy cao khoảng sáu tấc,[g] bên kia cao khoảng sáu tấc; còn các trạm đó, mỗi trạm chiều ngang ba mét rưỡi[h] và chiều dọc ba mét rưỡi. 13 Sau đó ngươi ấy đo cổng, từ dưới mái của trạm gác nầy đến dưới mái của trạm gác kia, từ cửa ở tường nầy đến cửa ở tường kia, mười bốn mét rưỡi.[i] 14 Người ấy cũng đo bức tường có hàng trụ bổ tường, đo vòng đến cây trụ bổ tường ở cổng của tiền sảnh, khoảng ba mươi lăm mét[j]. 15 Từ mặt trước của cổng, nơi lối vào, cho đến mặt sau của tiền sảnh ở cổng, hai mươi chín mét.[k] 16 Các trạm gác đều có các cửa sổ nhỏ. Dọc theo bức tường có hàng trụ bổ tường là các cửa sổ quay mặt vào trong. Tương tự tiền sảnh cũng có các cửa sổ có khung vòm ở trên.[l] Trên các trụ đều đắp hình các cây chà là.

Sân Ngoài

17 Sau đó người ấy đem tôi ra sân ngoài. Này, tôi thấy ở đó có nhiều phòng, khắp sân đều lát đá; có ba mươi phòng ở quanh sân. 18 Sân lát đá ấy trải dài đến các cổng, cổng rộng bao nhiêu thì đá được lát kín đến bấy nhiêu; đó là sân dưới có lát đá. 19 Người ấy đo khoảng cách từ mí ngoài của cổng dưới đến mí ngoài của sân trong, năm mươi tám mét,[m] ở phía đông và phía bắc.

Cổng Bắc

20 Sau đó người ấy đo chiều dài và chiều rộng của cổng ở sân ngoài nhìn về hướng bắc. 21 Các trạm gác, mỗi bên ba trạm, các trụ bổ tường, và tiền sảnh đều có kích thước như ở cổng thứ nhất. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[n] và rộng mười bốn mét rưỡi.[o] 22 Các cửa sổ, tiền sảnh, và hình các cây chà là đều có kích thước như cổng nhìn về hướng đông. Bảy bậc thềm ở ngoài dẫn lên tiền sảnh bên trong. 23 Ðối diện với cổng bắc, giống như cổng đông, là một cổng dẫn vào sân trong. Người ấy đo từ cổng nầy đến cổng kia, năm mươi tám mét.[p]

Cổng Nam

24 Sau đó người ấy dẫn tôi đến phía nam, ở phía nam cũng có một cổng. Người ấy đo các trụ bổ tường và tiền sảnh; chúng có kích thước như các cổng kia. 25 Các cửa sổ dọc trên tường và các cửa sổ của tiền sảnh giống như các cổng kia; khu vực nầy dài hai mươi chín mét[q] và rộng mười bốn mét rưỡi.[r] 26 Có bảy bậc thềm dẫn lên tiền sảnh; tiền sảnh ở phía trong. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường, và các trụ đều đắp hình các cây chà là. 27 Ở phía nam cũng có một cổng dẫn vào sân trong. Người ấy đo khoảng cách từ cổng ngoài đến cổng trong, ở phía nam, năm mươi tám mét.[s]

Sân Trong ở Cổng Nam

28 Sau đó người ấy đem tôi vào sân trong ở cổng nam; nó cũng có kích thước như các cổng kia. 29 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều cùng kích thước như các cổng kia. Nơi đây cũng có các cửa sổ dọc theo tường và các cửa sổ cho tiền sảnh. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[t] và rộng mười bốn mét rưỡi.[u] 30 Chung quanh có các hành lang, dài mười bốn mét rưỡi[v] và rộng khoảng ba mét.[w] 31 Mặt của hành lang hướng ra sân ngoài. Các trụ bổ tường cũng đắp hình các cây chà là, và bậc thềm có tám bậc dẫn lên.

Sân Trong ở Cổng Ðông

32 Sau đó người ấy đem tôi vào sân trong của phía đông. Người ấy đo cổng ở đó, và nó có kích thước như các cổng kia. 33 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều có kích thước như các cổng kia. Các cửa sổ dọc trên tường và các cửa sổ của tiền sảnh giống như các cổng kia. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[x] và rộng mười bốn mét rưỡi.[y] 34 Mặt của tiền sảnh hướng ra sân ngoài. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường. Các trụ đều đắp hình các cây chà là, và bậc thềm của nó có tám bậc dẫn lên.

Sân Trong ở Cổng Bắc

35 Sau đó người ấy đem tôi đến cổng bắc. Người ấy đo nó, và nó có các kích thước giống các cổng kia. 36 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều cùng kích thước như các cổng kia. Ở đây cũng có các cửa sổ khắp nơi. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[z] và rộng mười bốn mét rưỡi.[aa] 37 Mặt của tiền sảnh hướng ra sân ngoài. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường. Các trụ đều đắp hình các cây chà là, và bậc thềm có tám bậc dẫn lên.

Các Phòng Dùng Ðể Chuẩn Bị Các Của Tế Lễ

38 Ở tiền sảnh của cổng có một phòng mà cửa của nó ăn thông với tiền sảnh. Phòng đó người ta dùng để tẩy rửa lễ vật sẽ dâng làm của lễ thiêu. 39 Trong tiền sảnh ở cổng nầy, mỗi bên có hai cái bàn, trên các bàn đó người ta giết các con vật hiến tế dùng làm của lễ thiêu, của lễ chuộc tội, và của lễ chuộc lỗi. 40 Ở bên ngoài tiền sảnh, nơi lối vào ở cổng bắc, có hai cái bàn; phía bên kia tiền sảnh ở cổng ấy cũng có hai cái bàn. 41 Bốn bàn ở bên trong và bốn bàn ở bên ngoài, bên cạnh cổng, tức tám bàn cả thảy. Trên các bàn đó người ta giết các con vật hiến tế. 42 Cũng có bốn bàn làm bằng đá dùng cho việc dâng của lễ thiêu. Mỗi bàn có bề ngang chín tấc, bề dọc chín tấc, và bề cao sáu tấc;[ab] trên các bàn đó người ta để các dụng cụ dùng cho việc sát tế các con vật hiến tế khi dâng của lễ thiêu. 43 Quanh tường có gắn các móc, mỗi cái rộng cỡ một tấc;[ac] thịt hiến tế được để trên các bàn đó.

Các Phòng cho Các Tư Tế

44 Khu vực bên ngoài của cổng trong có các phòng cho các ca sĩ. Các phòng ấy nằm trong khu vực của sân trong. Nơi cổng bắc có một phòng hướng về phía nam. Bên cạnh cổng đông có một phòng hướng về phía bắc. 45 Người ấy nói với tôi, “Phòng hướng mặt về phía nam dành cho các tư tế có trách nhiệm quản lý đền thờ, 46 và phòng hướng mặt về phía bắc dành cho các tư tế có trách nhiệm thi hành các công việc ở bàn thờ. Những người ấy là con cháu của Xa-đốc thuộc dòng dõi của Lê-vi. Chỉ họ mới được phép đến gần Chúa để hầu việc Ngài.”

47 Người ấy đo cái sân, chiều ngang năm mươi tám mét[ad] và chiều dọc năm mươi tám mét,[ae] tức hình vuông. Còn bàn thờ thì ở trước sân đền thờ.

Tiền Sảnh của Ðền Thờ

48 Sau đó người ấy đem tôi đến tiền sảnh của đền thờ và đo các trụ bổ tường của tiền sảnh, mỗi bên khoảng ba mét.[af] Chiều rộng của cổng là tám mét.[ag] Bề dày của bức tường ở mỗi bên cổng là một mét ba phần tư.[ah] 49 Tiền sảnh dài mười một mét rưỡi[ai] và rộng bảy mét.[aj] Bậc thềm dẫn lên tiền sảnh có mười bậc. Ngoài các trụ bổ tường, ở mỗi bên còn có các trụ rời.

Thánh Thi 91

Sự An Ninh của Người Tin Cậy CHÚA

Người nào ở nơi kín đáo của Ðấng Tối Cao
Sẽ được hằng ở dưới bóng của Ðấng Toàn Năng.

Tôi thưa với Chúa rằng,
“Ngài là nơi ẩn náu của con và là thành trì của con;
Ngài là Ðức Chúa Trời của con; con tin cậy nơi Ngài.”

Thật vậy Ngài sẽ giải cứu bạn khỏi cạm bẫy nguy hiểm[a]
Và khỏi ôn dịch chết người.
Ngài sẽ lấy lông Ngài bao phủ bạn;
Dưới cánh Ngài bạn sẽ tìm được nơi nương náu an toàn.
Ðức thành tín Ngài là thuẫn khiên và mộc che của bạn.
Bạn sẽ chẳng sợ dù sự khủng bố xảy đến ban đêm,[b]
Hoặc tên bay ban ngày,[c]
Hoặc ôn dịch lan truyền trong đêm khuya,
Hoặc sự hủy diệt tàn phá lúc giữa trưa.[d]

Hằng ngàn người có thể ngã xuống bên cạnh bạn,
Hằng vạn người gục ngã bên phải bạn,
Nhưng nguy hiểm sẽ chẳng đến gần bạn.
Bạn sẽ nhìn thấy tận mắt mình;
Bạn sẽ thấy kẻ ác bị báo trả.

Vì bạn đã lấy Chúa làm nơi nương náu mình,
Lấy Ðấng Tối Cao làm nơi trú ngụ mình,
10 Nên sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến với bạn,
Cũng chẳng có ôn dịch nào tới gần nhà[e] bạn;
11 Vì Ngài sẽ ra lịnh cho các thiên sứ Ngài gìn giữ bạn,
Ðể bảo vệ bạn trong mọi đường bạn đi.
12 Các thiên sứ sẽ nâng bạn trên đôi tay họ,
Kẻo chân bạn vấp phải đá chăng.
13 Bạn sẽ giẫm lên sư tử và rắn hổ mang;
Bạn sẽ chà đạp dưới chân sư tử tơ và rắn độc.[f]

14 Vì người ấy yêu kính Ta, nên Ta sẽ giải cứu người ấy;
Ta sẽ đặt người ấy lên nơi cao,[g] vì người ấy biết danh Ta.
15 Khi người ấy kêu cầu Ta, Ta sẽ đáp lời người ấy;
Trong lúc nguy nan, Ta sẽ ở cùng người ấy;
Ta sẽ giải cứu người ấy và làm cho người ấy được tôn trọng.
16 Ta sẽ cho người ấy được thỏa lòng sống lâu,
Và chỉ cho người ấy ơn cứu rỗi của Ta.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang