Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ru-tơ 2

Ru-tơ Gặp Bô-a

Lúc ấy Na-ô-mi có một người bà con bên chồng, một người khá giàu có, thuộc dòng họ Ê-li-mê-léc, tên là Bô-a.

Ru-tơ người Mô-áp thưa với Na-ô-mi, “Xin mẹ cho con ra đồng mót lúa. Con sẽ đi sau người nào thấy con được ơn trước mặt người ấy.”

Na-ô-mi nói với nàng, “Hãy đi đi, con gái của mẹ.”

Vậy Ru-tơ đi. Nàng theo sau các thợ gặt và mót lúa. Không ngờ nàng đến nhằm cánh đồng của Bô-a, người bà con bên chồng trong dòng họ của Ê-li-mê-léc. Này, lúc ấy Bô-a từ Bết-lê-hem đi ra và nói với các thợ gặt, “Nguyện Chúa ở cùng các bạn.”

Họ đáp lời ông, “Nguyện Chúa ban phước cho ông.”

Bấy giờ Bô-a hỏi người đầy tớ trông coi các thợ gặt, “Người thiếu nữ kia là con ai vậy?”[a]

Người đầy tớ trông coi các thợ gặt trả lời, “Cô ấy là người Mô-áp. Cô ấy đã theo Na-ô-mi từ đồng bằng Mô-áp về đây. Cô ấy có xin tôi rằng, ‘Xin ông làm ơn cho tôi theo sau các thợ gặt để lượm mót các gié lúa.’ Cô ấy đến đây mót lúa từ sáng sớm đến giờ và chỉ nghỉ dưới chòi một chút.”

Bấy giờ Bô-a nói với Ru-tơ, “Hãy nghe đây, con gái của tôi: đừng đi đến ruộng khác để mót lúa hay rời khỏi đám ruộng này, nhưng hãy theo sát các cô thợ gặt của tôi. Hãy để ý xem các thợ gặt của tôi gặt lúa ở đám ruộng nào, con hãy theo họ đến đám ruộng đó. Tôi đã dặn các lực điền của tôi không được đụng đến con rồi. Nếu con khát nước, hãy lại uống nước trong các vò do các lực điền của tôi mang đến đằng kia.”

10 Ru-tơ bèn sấp mặt xuống đất và nói, “Bởi đâu mà con được ơn trước mặt ông như thế này? Làm sao ông lại để ý đến con trong khi con là một người ngoại quốc?”

11 Bô-a đáp, “Tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng con từ lúc chồng con qua đời người ta đều thuật lại cho tôi nghe hết, và thể nào con đã lìa cha mẹ con và xứ sở của con để đến sống với một dân con chưa biết. 12 Nguyện Chúa ban thưởng cho con vì những việc con làm. Nguyện Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng con đã chọn đến núp dưới bóng cánh Ngài, ban thưởng cho con thật đầy dẫy.”

13 Ru-tơ đáp, “Thưa ông, nguyện con tiếp tục được ơn trước mặt ông, vì ông đã yên ủi con và dùng những lời tử tế nói với đầy tớ ông, mặc dù con biết thân phận con không bằng một tớ gái của ông.”

14 Ðến bữa ăn, Bô-a nói với nàng, “Con hãy lại đây. Mời con ăn bánh và chấm bánh vào nước chấm chua này.” Vậy nàng ngồi bên cạnh các thợ gặt. Bô-a cũng đem gạo rang mời nàng ăn. Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư lại. 15 Ăn xong nàng đứng dậy đi mót lúa tiếp.

Bô-a dặn các đầy tớ ông, “Hãy để cho cô ấy mót lúa, dẫu cô ấy có mót ở giữa những bó lúa cũng đừng trách cô ta. 16 Các bạn cũng hãy rút những gié lúa tốt trong bó ra, cố tình bỏ rơi, để cho cô ấy lượm, và đừng quở trách cô ấy điều chi.”

17 Vậy Ru-tơ mót lúa đến chiều tối. Nàng đập số lúa nàng đã mót được và gom được chừng mười ký[b] lúa mạch. 18 Nàng mang số lúa đã mót được đi vào trong thành, và mẹ chồng nàng thấy số lúa nàng đã mót được. Sau đó nàng lấy phần thức ăn nàng đã để dành ra, mời mẹ chồng nàng ăn.

19 Mẹ chồng nàng hỏi, “Hôm nay con đã mót lúa ở đâu? Con đã làm việc trong ruộng của ai? Phước cho người đã lưu ý đến con.”

Vậy nàng nói cho mẹ chồng nàng nghe nàng đã làm việc trong ruộng của ai. Nàng đáp, “Tên người chủ ruộng mà con đã làm việc hôm nay là Bô-a.”

20 Na-ô-mi nói với con dâu bà, “Nguyện Chúa, Ðấng không ngừng bày lòng nhân từ cho người sống và người chết, ban phước cho người ấy.” Na-ô-mi lại nói tiếp, “Người ấy là bà con của chúng ta và cũng là người có quyền chuộc sản nghiệp của chúng ta.

21 Ru-tơ người Mô-áp nói với bà, “Người ấy đã bảo con, ‘Hãy theo các thợ gặt của tôi cho đến khi xong mùa gặt.’”

22 Na-ô-mi nói với nàng, “Hỡi con gái của mẹ, mẹ thấy con cứ theo các cô thợ gặt của người ấy là tốt hơn cả, vì nếu con đi mót lúa ở ruộng khác không chừng con có thể gặp phiền phức.”

23 Vậy nàng cứ theo sát các cô thợ gặt của Bô-a mà mót lúa cho đến cuối mùa gặt lúa mạch và lúa mì; và nàng đã sống với mẹ chồng của nàng như vậy.

Công Vụ Các Sứ đồ 27

Phao-lô Ðược Giải Ðến Rô-ma

27 Khi có quyết định cho chúng tôi đi tàu qua I-ta-ly, họ trao Phao-lô và một số tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-u thuộc quân đoàn Âu-gút-tơ.[a]

Chúng tôi xuống một chiếc tàu xuất hành từ Hải Cảng A-ra-my-ti-um; tàu ấy tính nhổ neo chạy ghé các hải cảng dọc vùng A-si-a. Chúng tôi giăng buồm ra khơi. Ðồng hành với chúng tôi có A-ri-tạc là người Ma-xê-đô-ni-a ở Thành Thê-sa-lô-ni-ca. Hôm sau chúng tôi ghé vào Hải Cảng Si-đôn. Giu-li-u đối xử tử tế với Phao-lô; ông cho phép Phao-lô đi thăm các bạn bè và để họ chăm sóc ông. Từ đó chúng tôi ra khơi và đi vòng lên phía bắc Ðảo Chíp-rơ bởi vì gặp gió ngược. Sau khi chúng tôi vượt qua hải phận của Si-li-si-a và Pam-phy-li-a, chúng tôi đến Hải Cảng My-ra, thuộc miền Ly-si-a. Ở đó ông đại đội trưởng tìm được một chiếc tàu từ A-léc-xan-ria sắp nhổ neo đi I-ta-ly, nên ông cho chúng tôi chuyển sang tàu đó.

Tàu đi rất chậm; mất rất nhiều ngày và phải vất vả lắm chúng tôi mới đến được gần Cơ-ni-đu. Vì gặp gió ngược nên tàu phải chạy vòng xuống phía nam Ðảo Cơ-rết, đối ngang Sanh-môn. Tàu cứ chạy dọc theo bờ biển và phải vất vả lắm mới vào được một nơi gọi là Mỹ Cảng,[b] gần Thành La-sê.

Gặp Bão Giữa Biển

Chúng tôi phải ở đó khá lâu. Bấy giờ kỳ kiêng ăn đã qua rồi, và chuyến hải hành càng trở nên nguy hiểm hơn. Phao-lô khuyên họ; 10 ông nói với họ, “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải hành này từ đây trở đi thật nguy hiểm. Chúng ta có thể bị thiệt hại lớn, không những có thể sẽ mất cả hàng hóa lẫn chiếc tàu, mà còn nguy cả đến tính mạng chúng ta nữa.”

11 Nhưng ông đại đội trưởng tin lời của viên tài công và người chủ tàu hơn lời của Phao-lô. 12 Vì hải cảng đó không thích hợp cho tàu đậu trong mùa đông, nên đa số tán đồng việc nhổ neo ra đi, với hy vọng có thể đến được Phê-nít để tạm trú qua mùa đông; đó là một hải cảng trên Ðảo Cơ-rết, hướng về phía tây nam và tây bắc. 13 Thấy gió nam thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được dự tính, nên họ nhổ neo cho tàu chạy dọc theo bờ Ðảo Cơ-rết. 14 Nhưng chẳng bao lâu, một trận cuồng phong có tên là “Gió Ðông Bắc” từ trên đảo quật xuống. 15 Thế là chiếc tàu bị bão cuốn đi. Vì không thể cho tàu chạy ngược với gió bão để trở vào bờ, chúng tôi đành để cho tàu cứ trôi theo chiều gió. 16 Khi tàu trôi về phía nam của một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi phải khó khăn lắm mới giữ lại được chiếc xuồng cấp cứu. 17 Sau khi kéo được chiếc xuồng ấy lên, họ tìm cách giữ cho tàu khỏi vỡ, nên đã lấy dây thừng buộc vòng dưới đáy tàu lại. Sau đó họ sợ chiếc tàu bị mắc cạn ngoài khơi Ðảo Sy-ti, nên họ thả neo xuống và cứ để tàu trôi theo chiều gió. 18 Ngày hôm sau tàu chúng tôi liên tục bị bão dồi dập dữ dội, nên họ quăng các hàng hóa xuống biển cho nhẹ tàu. 19 Ðến ngày thứ ba họ tự tay quăng các đồ thiết bị trên tàu xuống biển. 20 Trải qua nhiều ngày chúng tôi không thấy mặt trời hay một vì sao nào, trong khi đó gió bão vẫn thổi mạnh và không chịu dứt. Cuối cùng chúng tôi đành chấp nhận hết hy vọng được cứu thoát.

21 Mọi người trên tàu chẳng màng ăn uống gì đã khá lâu, nên Phao-lô đứng giữa họ và nói, “Thưa các ông, nếu các ông nghe lời tôi mà không rời khỏi Cơ-rết thì chúng ta đã tránh được những thiệt hại và mất mát này rồi. 22 Nhưng bây giờ tôi khuyên các ông hãy can đảm lên, không ai trong các ông sẽ thiệt mạng, chỉ phải mất chiếc tàu này thôi. 23 Vì đêm qua một thiên sứ của Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi thuộc về và phục vụ, đã đứng bên tôi 24 và bảo rằng, ‘Hỡi Phao-lô, đừng sợ. Ngươi cần phải ứng hầu trước tòa án của Sê-sa, và này, Ðức Chúa Trời sẽ cho tất cả những người cùng đi trong chuyến hải hành với ngươi được sống.’ 25 Vậy xin các ông hãy can đảm lên, vì tôi tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ làm y như lời Ngài đã phán; 26 chỉ có điều là chúng ta sẽ bị mắc cạn ở một hòn đảo nào đó.”

27 Ðến đêm thứ mười bốn mà tàu chúng tôi vẫn còn trôi dạt trên Biển Át-ria. Khoảng nửa đêm các thủy thủ tưởng rằng tàu đã gần tới đất liền, 28 nên họ thả trái dò xuống và thấy sâu hai mươi sải. Ðể cho tàu trôi một quãng nữa, họ lại thả trái dò xuống và thấy chỉ còn mười lăm sải. 29 Sợ tàu sẽ đụng phải đá ngầm, nên họ thả bốn chiếc neo ở mũi tàu xuống, rồi cầu mong cho mau tới sáng.

30 Lúc ấy các thủy thủ tính bỏ tàu và trốn đi, nên họ thả chiếc xuồng cấp cứu xuống và lấy cớ là đi thả neo ở đàng mũi tàu. 31 Phao-lô nói với ông đại đội trưởng và các binh sĩ, “Nếu những người ấy không ở lại trên tàu, quý ông sẽ không được cứu sống đâu.” 32 Các binh sĩ liền cắt đứt những dây buộc chiếc xuồng cấp cứu để nó rớt xuống biển.

33 Bấy giờ trong khi chờ đợi trời sáng, Phao-lô khuyên mọi người nên ăn chút thực phẩm; ông nói, “Hôm nay là ngày thứ mười bốn rồi mà quý vị cứ trông ngóng, nhịn ăn, và không ăn gì. 34 Vì thế tôi khuyên quý vị hãy ăn chút gì đi, vì quý vị rất cần có sức để được cứu thoát. Không ai trong quý vị sẽ mất một sợi tóc trên đầu đâu.”

35 Sau khi ông nói như thế, ông lấy bánh, tạ ơn Ðức Chúa Trời trước mặt mọi người, rồi bẻ bánh ra, và bắt đầu ăn. 36 Thấy vậy mọi người được lên tinh thần và bắt đầu ăn.

37 Chúng tôi có cả thảy hai trăm bảy mươi sáu người trên tàu. 38 Sau khi đã ăn no, họ ném những bao lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.

Bị Ðắm Tàu

39 Ðến khi trời sáng họ không nhận ra được đó là vùng đất nào, nhưng họ thấy có cái vịnh và một bãi biển, vì thế họ muốn cho tàu vào bờ nếu họ có thể lái tàu vào được. 40 Vậy họ cắt bỏ các neo lại dưới biển, đồng thời tháo dây cột bánh lái ra, rồi căng buồm ở đằng mũi lên, và nương theo chiều gió để lái tàu chạy vào bờ. 41 Nhưng tàu chạy nhằm vào bãi cát ngầm do hai dòng nước xáp lại nhau tạo thành, nên bị mắc cạn tại đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc nhích gì được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đập nát hết. 42 Bấy giờ các binh sĩ canh tù bàn với nhau nên giết tất cả các tù nhân kẻo có ai lội đi và trốn thoát. 43 Nhưng ông đại đội trưởng muốn cứu Phao-lô nên ngăn cản họ thực hiện ý định đó. Ông ra lịnh cho những ai biết bơi cứ nhảy xuống nước trước và bơi vào bờ, 44 những người còn lại, một số đã bám vào các tấm ván hoặc những mảnh tàu vỡ và lội vào bờ sau. Thế là tất cả đều được lên bờ an toàn.

Giê-rê-mi 37

Xê-đê-ki-a Hy Vọng Hão Huyền

37 Xê-đê-ki-a con của Giô-si-a, người được Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn lập lên làm vua trị vì nước Giu-đa, thế vị cho Cô-ni-a con của Giê-hô-gia-kim. Nhưng ông, triều thần của ông, và dân trong nước đều không muốn nghe lời của Chúa đã phán qua Tiên Tri Giê-rê-mi.

Vua Xê-đê-ki-a sai Giê-hu-canh con của Sê-lê-mi-a và Tư Tế Sô-phô-ni-a con của Ma-a-sê-gia đến gặp Tiên Tri Giê-rê-mi, nói rằng, “Xin ông cầu nguyện với Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, cho chúng tôi.” Vả lúc ấy Giê-rê-mi vẫn còn được tự do đi lại giữa dân, chứ chưa bị giam vào tù. Khi ấy quân đội của Pha-ra-ôn đã kéo ra khỏi Ai-cập. Khi quân Canh-đê đang bao vây Giê-ru-sa-lem nghe tin ấy, họ rút đi khỏi Giê-ru-sa-lem.

Bấy giờ có lời của Chúa đến với Tiên Tri Giê-rê-mi: Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, ‘Ðây là những gì quý vị hãy tâu lại với vua Giu-đa, người đã sai quý vị đến với tôi để hỏi tôi, “Này, quân đội của Pha-ra-ôn đã kéo ra để giúp đỡ quý vị sẽ rút về xứ của họ ở Ai-cập. Quân Canh-đê sẽ trở lại và công phá thành này. Chúng sẽ chiếm lấy thành và phóng hỏa thành.”’ Chúa phán thế này, ‘Chớ tự dối mình mà bảo rằng, “Quân Canh-đê chắc chắn sẽ bỏ chúng ta mà đi,” vì chúng sẽ không bỏ đi. 10 Ví dù các người có thể đánh bại toàn thể đội quân Canh-đê đi nữa, thì chỉ những kẻ bị thương nằm dưỡng thương trong các trại của chúng cũng có thể trỗi dậy mà thiêu rụi thành này trong lửa.’”

Giê-rê-mi Bị Tù vì Nói Thật

11 Lúc ấy quân Canh-đê đã rút ra khỏi Giê-ru-sa-lem để đối phó với quân của Pha-ra-ôn đang tiến gần; 12 nhân cơ hội đó Giê-rê-mi rời khỏi Giê-ru-sa-lem, đến lãnh thổ của chi tộc Bên-gia-min, để nhận lấy phần bất động sản của ông ở giữa chi tộc của ông ở đó. 13 Nhưng khi ông vừa đến Cổng Bên-gia-min, quan chỉ huy ở đó tên là I-ri-gia con của Sê-lê-mi-a con của Ha-na-ni-a liền bắt Tiên Tri Giê-rê-mi và buộc tội rằng, “Ông định bỏ trốn qua với quân Canh-đê.”

14 Giê-rê-mi đáp, “Ông nói không đúng sự thật. Tôi không hề có ý định trốn qua với quân Canh-đê.” Nhưng I-ri-gia chẳng thèm nghe ông. Ông ấy cứ bắt Giê-rê-mi và đem nộp ông cho các quan trưởng. 15 Các quan trưởng nổi giận với Giê-rê-mi, họ đánh ông, rồi nhốt ông vào ngục, trong dinh của quan Thư Ký Giô-na-than, vì dinh ấy đã được biến thành một nhà tù. 16 Thế là Giê-rê-mi bị giam dưới hầm, trong ngục thất; và ông bị giam giữ ở đó nhiều ngày.

17 Sau đó Vua Xê-đê-ki-a sai người đến mời ông và tiếp riêng ông. Vua hỏi riêng ông trong cung điện mình rằng, “Có lời gì của Chúa cho tôi không?”

Giê-rê-mi đáp, “Có!” Ông nói tiếp, “Ngài sẽ bị phó vào tay vua Ba-by-lôn.” 18 Giê-rê-mi cũng nói với Vua Xê-đê-ki-a, “Tôi đã làm điều gì sai đối với ngài, hoặc đối với bầy tôi của ngài, hoặc đối với dân này mà ngài đã bắt giam tôi vào ngục? 19 Các tiên tri của ngài, những người đã nói tiên tri với ngài rằng, ‘Vua Ba-by-lôn sẽ không đến tấn công ngài và đất nước này’ bây giờ đâu rồi? 20 Vậy bây giờ xin chúa thượng đoái nghe điều tôi cầu xin ngài: xin đừng trả tôi lại dinh của quan Thư Ký Giô-na-than, kẻo tôi sẽ chết ở đó.”

21 Vua Xê-đê-ki-a ra lịnh, và họ đem Giê-rê-mi đến giam trong nhà giam ở doanh trại của đội quân thị vệ. Mỗi ngày người ta cấp cho ông một ổ bánh do Phố Hàng Bánh cung cấp cho đến khi bánh trong thành không còn nữa. Vậy Giê-rê-mi được giữ lại trong nhà giam ở doanh trại của đội quân thị vệ.

Thánh Thi 10

Xin Chúa Loại Trừ Kẻ Gian Ác

Chúa ôi, sao Ngài vẫn còn đứng đằng xa?
Tại sao Ngài nỡ ẩn mình trong khi con bị nguy nan?

Kẻ ác kiêu căng bách hại người nghèo;
Nguyện chúng bị sa vào mưu chước do chúng vạch ra.
Vì kẻ ác khoe khoang lòng tham muốn nó;
Nó chúc phước cho kẻ tham lam và nó chối bỏ Chúa.
Kẻ ác không tìm cầu Ngài mà còn vênh mặt kiêu căng;
Trong mọi tư tưởng nó, nó đều cho rằng, “Chẳng có Ðức Chúa Trời.”
Thế mà đường lối nó cứ luôn được may mắn.
Sự phán xét của Ngài cao quá tầm mắt nó.
Ðối với những người chống đối nó, nó khinh bỉ ra mặt.
Nó tự phụ trong lòng rằng, “Ta sẽ không bị rúng động;
Từ đời này sang đời khác, ta sẽ không bao giờ gặp tai họa.”
Miệng nó chứa đầy những lời chưởi thề, nói dối, và đe dọa;
Dưới lưỡi nó có biết bao hiểm ác và tội lỗi.

Nó ngồi phục kích trong các xóm làng;
Từ những nơi nó mai phục, nó giết những người vô tội;
Cặp mắt nó luôn theo dõi những người yếu nghèo.
Nó âm thầm nằm đợi như sư tử nằm rình trong bụi;
Nó nằm rình, chờ vồ lấy người nghèo.
Nó vồ được người nghèo, rồi kéo người ấy vào trong lưới nó.
10 Nó ghì xuống, và nạn nhân nó bó tay chịu trận;
Người yếu nghèo ngã quỵ dưới sức mạnh nó.
11 Nó tự nhủ trong lòng, “Ðức Chúa Trời đã quên rồi;
Ngài đã ẩn mặt rồi, và Ngài sẽ không bao giờ thấy việc này.”

12 Chúa ôi, xin trỗi dậy!
Ðức Chúa Trời ôi, xin nhấc cánh tay Ngài lên.
Xin Ngài đừng quên những người bị áp bức.
13 Sao kẻ ác dám chối bỏ Ðức Chúa Trời?
Sao lòng nó dám nghĩ, “Ngài sẽ không bao giờ tra xét?”

14 Nhưng Ngài đã thấy hết, vì Ngài ghi nhận những tội ác và khổ đau, để chính tay Ngài sẽ báo trả.
Người yếu nghèo phó thác đời sống mình cho Ngài, vì Ngài là Ðấng giúp đỡ kẻ mồ côi.
15 Xin Ngài bẻ gãy cánh tay kẻ ác và kẻ làm điều gian tà;
Xin Ngài truy cứu các việc gian ác của chúng, cho đến khi không còn tìm ra tội ác nào nữa.

16 Chúa là Vua đời đời vô cùng;
Những dân vô tín sẽ bị diệt mất khỏi đất của Ngài.

17 Chúa ôi, xin Ngài dủ nghe ước nguyện của kẻ thấp hèn;
Xin Ngài làm cho họ được vững lòng;
Xin Ngài nghiêng tai nghe,
18 Ðể thực hiện công lý cho kẻ mồ côi và người bị áp bức,
Hầu những kẻ ra từ bụi đất sẽ không còn gây kinh hãi nữa.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang