M’Cheyne Bible Reading Plan
Am-nôn và Ta-ma
13 Đa-vít có một con trai tên Áp-xa-lôm và một con trai tên Am-nôn [a]. Áp-xa-lôm có một em gái rất đẹp tên Ta-ma. Am-nôn yêu cô ta. 2 Ta-ma là trinh nữ. Am-nôn tương tư [b] nàng mà không biết tìm dịp nào để gần nàng nên giả đau.
3 Am-nôn có một người bạn tên Giô-na-đáp, con Si-mê-a, anh Đa-vít. Giô-na-đáp rất khôn lanh. 4 Anh hỏi Am-nôn, “Nầy hoàng tử, sao hôm nay trông anh tiều tụy thế? Nói cho tôi biết được không?”
Am-nôn thú thật, “Tôi yêu Ta-ma, em gái của Áp-xa-lôm, anh cùng cha khác mẹ với tôi.”
5 Giô-na-đáp liền bày kế cho Am-nôn, “Anh hãy lên giường giả vờ đau. Cha anh sẽ đến thăm anh. Lúc đó anh sẽ thưa với cha anh, ‘Xin cha cho em Ta-ma đến làm thức ăn cho con. Nó sẽ nấu thức ăn trước mặt con để con nhìn và đút con ăn.’”
6 Vậy Am-nôn lên giường giả vờ đau. Khi vua Đa-vít đến thăm thì Am-nôn thưa, “Xin cha cho Ta-ma em con đến thăm con. Để em con làm hai cái bánh trong khi con nhìn nó, rồi nó đút con ăn.”
7 Đa-vít cho gọi Ta-ma vào cung bảo, “Con hãy đi đến nhà Am-nôn, anh con, làm món gì cho nó ăn.”
8 Vậy Ta-ma đi đến nhà Am-nôn trong khi anh đang nằm trên giường. Ta-ma lấy bột nhồi bằng tay. Nàng làm mấy cái bánh đặc biệt trong khi Am-nôn nhìn nàng. Rồi nàng nướng bánh. 9 Sau đó nàng lấy cái chảo để mời anh ăn nhưng anh không chịu ăn. Anh bảo các người đầy tớ, “Tụi bây lui ra hết đi!” Vậy mọi người đi ra hết.
10 Am-nôn bảo Ta-ma, “Em hãy mang thức ăn vào phòng ngủ để em đút anh ăn.”
Ta-ma lấy mấy cái bánh nàng đã làm mang cho anh mình là Am-nôn trong phòng ngủ. 11 Nàng đem đến đút cho anh ăn nhưng anh nắm lấy tay nàng. Anh bảo, “Em ơi, hãy lại làm tình với anh.”
12 Ta-ma phản đối, “Anh ơi, không được! Đừng cưỡng ép em! Không nên làm chuyện như thế nầy trong Ít-ra-en! Đừng làm chuyện sỉ nhục như thế! 13 Em sẽ không thể nào gỡ nhục được! Còn anh sẽ trở thành người ngu xuẩn nhục nhã trong Ít-ra-en! Anh hãy hỏi xin phụ vương, người sẽ cho anh cưới em.”
14 Nhưng Am-nôn không nghe. Anh ta mạnh hơn nàng cho nên cưỡng hiếp nàng. 15 Sau đó Am-nôn đâm ra ghét Ta-ma. Sự ghét bỏ còn lớn hơn tình yêu nàng lúc trước. Am-nôn bảo, “Đứng dậy đi ra khỏi đây ngay!”
16 Ta-ma bảo anh, “Không được! Anh đuổi em ra như thế nầy còn xấu hơn điều anh làm nữa!”
Nhưng anh không thèm nghe. 17 Anh gọi tên đầy tớ trẻ vào bảo, “Hãy mang người đàn bà nầy ra khỏi đây khuất mắt ta ngay lập tức! Khóa cửa lại.”
18 Vậy tên đầy tớ dẫn nàng ra khỏi phòng rồi khóa cửa lại.
Ta-ma đang mặc một cái áo tay dài có nhiều màu [c], vì các công chúa còn trinh của vua hay mặc loại áo ấy. 19 Để tỏ sự buồn bực, Ta-ma liền phủ tro trên đầu, xé áo mình và lấy tay ôm đầu. Rồi nàng vừa đi vừa khóc thảm thiết. [d]
20 Áp-xa-lôm, anh nàng hỏi, “Có phải Am-nôn, anh em, đã cưỡng hiếp em không? Bây giờ, em hãy làm thinh đi. Nó là anh khác mẹ với em. Đừng quá bực mình vì chuyện nầy!” Vậy Ta-ma ở trong nhà Áp-xa-lôm, anh mình, và cảm thấy buồn tẻ cô đơn. [e]
21 Khi vua Đa-vít nghe được chuyện ấy thì vô cùng tức giận nhưng ông không nói gì với Am-nôn cả vì ông yêu Am-nôn là con cả mình [f]. 22 Còn Áp-xa-lôm thì không thèm nói với Am-nôn tiếng lành hay tiếng dữ nào, nhưng rất căm thù Am-nôn vì đã làm nhục Ta-ma, em gái mình.
Áp-xa-lôm báo thù
23 Hai năm sau, Áp-xa-lôm thuê một số người đến Ba-anh Hát-xo, ở Ép-ra-im, để hớt lông chiên cho mình. Áp-xa-lôm cũng mời các hoàng tử đến nữa. 24 Áp-xa-lôm đến thưa với vua, “Con có mấy người đến hớt lông chiên. Xin cha cùng các quần thần đến chơi với con.”
25 Nhưng vua Đa-vít bảo Áp-xa-lôm, “Không được con. Chúng ta không đi được vì quá phiền cho con.”
Mặc dù Áp-xa-lôm năn nỉ Đa-vít, vua vẫn không chịu đến, nhưng chúc phước cho Áp-xa-lôm.
26 Áp-xa-lôm thưa, “Nếu cha không muốn đến thì xin cha để em con là Am-nôn đến với chúng con.” Vua Đa-vít hỏi, “Tại sao nó phải đến với con?”
27 Áp-xa-lôm năn nỉ quá nên Đa-vít cho phép Am-nôn và các hoàng tử đi với Áp-xa-lôm.
Am-nôn bị giết
28 Áp-xa-lôm dặn các tôi tớ mình, “Hãy quan sát Am-môn. Khi nào hắn say ta sẽ bảo các ngươi, ‘Hãy giết Am-nôn’ thì hãy giết hắn! Đừng sợ vì chính ta bảo các ngươi! Hãy mạnh dạn và can đảm!”
29 Vậy các thanh niên của Áp-xa-lôm giết Am-nôn theo lệnh Áp-xa-lôm, nhưng các hoàng tử khác của Đa-vít leo lên lưng lừa chạy thoát.
Đa-vít nghe tin Am-nôn chết
30 Trong khi các hoàng tử đang trốn chạy thì có người báo tin cho Đa-vít, “Áp-xa-lôm đã giết hết các hoàng tử, không ai sống sót!”
31 Vua Đa-vít liền xé quần áo mình và buồn rầu nằm dưới đất [g]. Tất cả các tôi tớ vua đứng gần đó cũng xé quần áo mình.
32 Giô-na-đáp, con trai Si-mê-a, anh Đa-vít bảo vua, “Không phải tất cả các con trai vua đều bị giết đâu. Chỉ có một mình Am-nôn bị giết thôi! Áp-xa-lôm đã dự định chuyện nầy từ khi Am-nôn cưỡng hiếp Ta-ma. 33 Thưa chúa và vua tôi, không phải tất cả con trai vua đều bị giết, chỉ có một mình Am-nôn bị giết thôi!”
34 Trong khi đó, Áp-xa-lôm đã bỏ trốn.
Một lính gác trên vách thành thấy nhiều người xuất hiện từ phía bên kia đồi. 35 Cho nên Giô-na-đáp bảo Đa-vít, “Đó, tôi nói đúng! Các con trai vua đang chạy đến kìa!”
36 Khi Giô-na-đáp vừa nói xong thì các hoàng tử chạy đến, khóc lóc thảm thiết. Đa-vít cùng các tôi tớ cũng khóc theo. 37 Đa-vít than khóc cho con mình mỗi ngày.
Áp-xa-lôm chạy trốn đến Ghê-sua
Còn Áp-xa-lôm thì trốn đến Thanh-mai, con trai Am-mi-hút, vua Ghê-sua [h].
38 Sau khi Áp-xa-lôm chạy trốn đến Ghê-sua thì ở đó ba năm. 39 Đa-vít nguôi buồn về cái chết của Am-nôn nhưng vua thương nhớ Áp-xa-lôm.
6 Chúng tôi là bạn đồng công với Thượng Đế cho nên chúng tôi nài xin anh chị em: Đừng làm uổng phí ân tứ anh chị em đã nhận từ Thượng Đế. 2 Thượng Đế đã phán,
“Ta đã nghe lời cầu nguyện
của ngươi đúng lúc.
Ta đã cứu giúp ngươi
trong ngày cứu rỗi.” (A)
Tôi xin thưa với anh chị em, bây giờ là “đúng lúc,” và bây giờ là “ngày cứu rỗi.”
3 Chúng tôi không muốn làm cớ vấp ngã cho người nào để không ai chỉ trích việc làm của chúng tôi. 4 Trong mọi việc, chúng tôi luôn luôn chứng tỏ mình là đầy tớ Thượng Đế: Chúng tôi chấp nhận khốn khó, vất vả và thử thách. 5 Chúng tôi bị đòn vọt, tù đày. Gặp những người tức giận với chúng tôi rồi gây bạo động. Chúng tôi làm việc vất vả, có khi thiếu ăn, mất ngủ. 6 Để chứng tỏ mình là đầy tớ của Thượng Đế chúng tôi dùng đời sống tinh sạch, hiểu biết, kiên nhẫn, nhân từ, bằng Thánh Linh, bằng lòng yêu thương chân thật, 7 bằng lời nói thật, và bằng quyền năng Thượng Đế. Chúng tôi dùng nếp sống ngay thật để bênh vực mình khỏi mọi thứ. 8 Có người tôn trọng chúng tôi nhưng cũng có kẻ chê trách chúng tôi. Có kẻ nói xấu chúng tôi nhưng cũng có người nói tốt về chúng tôi. Có người cho chúng tôi là kẻ nói dối nhưng chúng tôi luôn luôn nói điều chân thật. 9 Trông như không ai biết, thế mà có nhiều người biết. Trông như sắp chết, thế mà vẫn còn sống, chúng tôi bị hình phạt nhưng chưa bị giết. 10 Gặp đủ cảnh buồn mà trong lòng vẫn vui. Tuy nghèo mà lại làm cho nhiều người giàu có trong đức tin. Trông như không có gì cả mà lại có đủ mọi thứ.
11 Chúng tôi đã thẳng thắn giảng dạy anh chị em ở Cô-rinh và đã mở rộng lòng ra cho anh chị em. 12 Lòng yêu mến của chúng tôi dành cho anh chị em không hề dứt nhưng chính anh chị em đã dứt lòng yêu mến mà anh chị em dành chúng tôi. 13 Tôi nói với anh chị em như với con cái mình. Hãy đối với chúng tôi như chúng tôi đối với anh chị em—hãy mở rộng lòng ra với chúng tôi.
Cảnh cáo về những người không tin
14 Anh chị em không như những người chưa tin. Cho nên đừng kết bạn với họ. Xấu và tốt không thể đi chung nhau. Sáng và tối cũng không hòa hợp được. 15 Làm sao mà Chúa Cứu Thế và Bê-li-an, tức ma quỉ [a], thỏa hiệp được với nhau? Người tin có phần nào chung với người không tin? 16 Đền thờ Thượng Đế [b] làm sao liên kết được với thần tượng, mà chúng ta là đền thờ của Thượng Đế hằng sống. Như Thượng Đế đã phán,
“Ta sẽ sống và đi lại giữa họ.
Ta sẽ là Thượng Đế của họ,
còn họ sẽ làm dân ta.” (B)
17 “Chúa phán,
Hãy ra khỏi chúng nó,
hãy tách riêng ra.
Đừng đụng đến đồ dơ bẩn,
thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.” (C)
18 “Ta sẽ làm cha các ngươi,
còn các ngươi sẽ làm con trai
và con gái ta,
Chúa Toàn Năng phán như vậy.” (D)
Ít-ra-en quay mặt khỏi Thượng Đế
20 Vào ngày mười, tháng năm, năm lưu đày thứ bảy [a], thì một số bô lão của Ít-ra-en đến ngồi trước mặt tôi để hỏi thăm về CHÚA.
2 CHÚA phán cùng tôi như sau: 3 “Hỡi con người, hãy nói cùng các bô lão Ít-ra-en rằng: ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Có phải các ngươi đến cầu hỏi ta không? Thật như ta hằng sống, ta chẳng để các ngươi hỏi đâu.’
4 Ngươi sẽ xét xử chúng không? Hỡi con người, ngươi sẽ xét xử chúng không? Hãy cho chúng biết những điều gớm ghiếc tổ tiên chúng nó làm. 5 Hãy bảo chúng: Chúa là Thượng Đế phán: Khi ta chọn Ít-ra-en, ta hứa cùng con cháu Gia-cốp. Ta tỏ mình ta ra cho chúng ở Ai-cập và hứa cùng chúng, ‘Ta là CHÚA và là Thượng Đế các ngươi.’ 6 Lúc đó ta hứa sẽ mang chúng ra khỏi Ai-cập vào một xứ ta đã tìm được cho chúng, một xứ phì nhiêu [b], xứ tốt nhất trên thế giới. 7 Ta bảo chúng, ‘Mỗi người trong các ngươi phải ném bỏ các tượng chạm gớm ghiếc mà các ngươi đã thấy và thích. Đừng làm ô dơ mình bằng các thần giả của Ai-cập. Ta là CHÚA và là Thượng Đế các ngươi.’
8 Nhưng chúng phản nghịch ta, không thèm nghe ta. Chúng không chịu ném bỏ các tượng chạm gớm ghiếc mà chúng đã thấy và thích; chúng không từ bỏ các thần tượng của Ai-cập. Vì thế ta quyết định đổ cơn thịnh nộ ta trên chúng trong khi chúng còn ở Ai-cập. 9 Ta đã hành động bảo vệ danh ta để danh ta không bị nhục mạ trước các dân tộc mà Ít-ra-en sinh sống. Ta tỏ mình ta ra cho Ít-ra-en và hứa mang chúng ra khỏi xứ Ai-cập trước sự chứng kiến của các dân tộc khác. 10 Cho nên ta mang chúng ra khỏi Ai-cập và đưa chúng vào trong sa mạc. 11 Ta cho chúng các qui tắc và dạy chúng các luật lệ để ai vâng giữ thì được sống. 12 Ta cũng ban cho chúng ngày Sa-bát để làm dấu hiệu giữa chúng ta để chúng biết ta là CHÚA, Đấng khiến chúng ra thánh.
13 Nhưng trong sa mạc chúng phản nghịch ta, không vâng giữ các qui tắc, gạt bỏ các luật lệ ta là luật lệ mà ai vâng giữ thì sẽ sống. Chúng khinh thường ngày Sa-bát ta. Vì thế ta định đổ cơn giận ta trên chúng và tiêu diệt chúng trong sa mạc. 14 Nhưng ta đã hành động để bảo vệ danh ta để danh đó không bị xem thường giữa các dân đang chứng kiến khi ta mang Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 15 Trong sa mạc ta thề cùng dân Ít-ra-en rằng ta sẽ không mang chúng vào trong xứ mà ta đã ban cho chúng, một xứ phì nhiêu, tốt nhất trên thế giới 16 vì chúng đã gạt bỏ các luật lệ và không vâng giữ các qui tắc ta. Chúng khinh thường ngày Sa-bát ta và chỉ muốn thờ các hình tượng mình. 17 Nhưng ta thương hại chúng. Ta không tiêu diệt và thanh toán chúng trong sa mạc. 18 Ta nói cùng con cái chúng trong sa mạc, ‘Đừng sống theo các qui tắc của cha mẹ các ngươi hay vâng theo các luật lệ chúng. Đừng làm cho chính mình ô dơ vì các thần tượng của chúng. 19 Ta là CHÚA và Thượng Đế các ngươi. Hãy sống theo các qui tắc ta, vâng giữ các luật lệ ta, noi theo các luật lệ và qui tắc đó. 20 Hãy giữ ngày Sa-bát ta ra thánh thì chúng sẽ làm dấu hiệu giữa ta với các ngươi. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA và Thượng Đế ngươi.’
21 Nhưng con cháu chúng phản nghịch ta. Chúng không sống theo các qui tắc ta, không cẩn thận vâng giữ các luật lệ ta là luật lệ mà ai vâng giữ thì sẽ sống. Chúng khinh thường ngày Sa-bát cho nên ta định đổ cơn giận ta trên chúng trong sa mạc. 22 Nhưng ta nén giận. Ta hành động như vậy vì danh ta để danh đó không bị xem thường giữa các dân đang chứng kiến khi ta mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 23 Trong sa mạc ta đã thề cùng dân Ít-ra-en rằng ta sẽ phân tán chúng ra khắp các dân và trải chúng ra khắp các nước, 24 vì chúng không vâng theo luật lệ ta. Chúng đã gạt bỏ các qui tắc và khinh thường các ngày Sa-bát ta và thờ phụng các thần tượng của cha mẹ chúng. 25 Ta cũng đã để chúng đi theo các qui tắc không tốt và các luật lệ mà chúng không thể nhờ đó mà sống. 26 Ta để cho dân Ít-ra-en tự làm ô dơ mình bằng những của lễ mà chúng dâng cho tà thần của chúng khi chúng thiêu các con đầu lòng mình trong lửa. Ta muốn làm cho chúng kinh hoảng để chúng biết rằng ta là CHÚA.
27 Vì vậy hỡi con người, hãy nói cùng dân Ít-ra-en rằng, CHÚA là Thượng Đế phán: Tổ tiên các ngươi đã nói phạm đến ta khi tỏ ra bất trung theo kiểu khác. 28 Lúc ta mang chúng vào trong xứ ta hứa thì chúng nhìn hết các ngọn đồi và các cây xanh rậm lá. Chúng dâng các của lễ cho những tà thần mình trên các nơi đó. Chúng mang của lễ để chọc giận ta [c], rồi đốt hương và đổ của lễ uống ra. 29 Ta hỏi chúng: ‘Đồi cao nầy mà các ngươi đến thờ phụng là gì?’ Ngày nay chỗ đó vẫn gọi là Đồi Cao.
30 Cho nên hãy bảo dân Ít-ra-en: CHÚA là Thượng Đế phán: Các ngươi sẽ tự làm ô uế bản thân như tổ tiên mình sao? Các ngươi sẽ bất trung và muốn thờ phụng các thần tượng đáng gớm ghiếc sao? 31 Khi các ngươi dâng con cái mình lên và thiêu chúng trong lửa, các ngươi tự làm ô uế bản thân cùng với các thần tượng mình, cho đến ngày nay cũng y như vậy. Cho nên hỡi dân Ít-ra-en, ta có nên cho phép các ngươi hỏi không? CHÚA là Thượng Đế phán, thật như ta hằng sống, ta sẽ không nhận bất cứ câu hỏi nào từ các ngươi đâu.
32 Những điều các ngươi muốn sẽ không thành sự thật. Các ngươi nói, ‘Chúng tôi muốn như các dân khác, như dân tộc của các xứ khác. Chúng tôi muốn thờ các tượng chạm bằng gỗ và bằng đá. 33 Thật như ta hằng sống, CHÚA là Thượng Đế phán, ta sẽ dùng quyền năng lớn lao, sức mạnh của cơn thịnh nộ ta để cai trị các ngươi. 34 Ta sẽ mang các ngươi ra khỏi các nước ngoại quốc. Ta sẽ dùng quyền năng lớn lao, sức mạnh và cơn thịnh nộ ta để gom các ngươi lại từ các nước mà các ngươi đã bị phân tán. 35 Ta sẽ mang các ngươi ra nơi sa mạc không dân ở. Nơi đó ta sẽ phân xử các ngươi mặt đối mặt. 36 Ta sẽ trừng phạt các ngươi như ta đã trừng phạt tổ tiên các ngươi trong sa mạc của xứ Ai-cập, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 37 Ta sẽ đếm các ngươi như chiên và sẽ mang các ngươi vào trong giao ước ta. 38 Ta sẽ diệt hết những kẻ không vâng lời ta hay chống nghịch ta. Ta sẽ mang chúng ra khỏi xứ hiện đang sống nhưng chúng sẽ không bao giờ được vào xứ Ít-ra-en. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA.’”
39 CHÚA là Thượng Đế phán: “Hỡi dân Ít-ra-en, hãy đi thờ thần tượng của các ngươi đi. Nhưng sau nầy các ngươi sẽ nghe ta; các ngươi sẽ không còn khinh thường danh thánh của ta bằng các của lễ và tà thần của mình nữa. 40 Trên núi thánh ta, núi cao của Ít-ra-en, toàn dân Ít-ra-en sẽ phục vụ ta trong xứ, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. Ta sẽ chấp nhận các ngươi ở đó. Ta sẽ chờ đợi các của lễ của các ngươi, của lễ đầu mùa gặt và của lễ thánh của các ngươi. 41 Ta sẽ chấp nhận các ngươi như mùi thơm của lễ khi ta mang các ngươi ra khỏi các xứ ngoại quốc và thu các ngươi về từ các xứ mà ngươi đã bị tản lạc. Rồi qua các ngươi ta sẽ tỏ ra cho mọi dân tộc khác thấy ta thánh khiết ra sao. 42 Khi ta mang các ngươi vào xứ Ít-ra-en, xứ mà ta đã hứa cùng tổ tiên các ngươi thì các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. 43 Tại đó các ngươi sẽ nhớ lại mọi điều mình làm đã khiến mình ô dơ, và các ngươi sẽ tự ghét mình vì những điều ác mình đã làm. 44 Ta sẽ đối xử với các ngươi vì danh thánh ta, chẳng phải vì những hành vi ác độc hay việc làm dơ bẩn của các ngươi. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA, hỡi dân Ít-ra-en. CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Ba-by-lôn là gươm của Chúa
45 CHÚA phán cùng tôi rằng: 46 “Hỡi con người, hãy nhìn về phía Nam. Hãy nói tiên tri nghịch cùng phương Nam và khu rừng Nê-ghép [d]. 47 Hãy nói cùng rừng rằng: ‘Hãy nghe lời CHÚA. CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẵn sàng châm lửa đốt ngươi và tiêu diệt mọi cây xanh và cây khô của ngươi. Sẽ không thể nào dập tắt đám lửa đó được. Mọi phía từ Nam đến Bắc sẽ cảm biết sức nóng của nó. 48 Rồi mọi người sẽ thấy rằng ta, CHÚA, đã châm lửa đó. Không ai dập tắt được.’”
49 Rồi tôi thưa, “Ôi, CHÚA là Thượng Đế! Dân chúng nói về tôi rằng, ‘Ông ta chỉ kể chuyện bịa đặt đó thôi.’”
Ca ngợi Chúa vì những việc cao cả Ngài làm
Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi.
66 Hỡi cả trái đất, hãy reo vui cho Thượng Đế.
2 Hãy ca ngợi uy danh của Ngài!
Hãy ca ngợi Ngài.
3 Hãy thưa cùng Chúa rằng,
“Các công việc Ngài làm thật lạ lùng!
Vì quyền năng cao cả Ngài,
các kẻ thù đều phải phục tùng Ngài.
4 Cả đất thờ phụng Ngài
và ca ngợi Ngài.
Chúng hát khen danh Ngài.” Xê-la
5 Hãy đến xem điều Thượng Đế
đã làm,
những việc kỳ diệu Ngài thực hiện cho con người.
6 Ngài hóa biển ra đất khô [a].
Người ta đi bộ qua sông [b].
Chúng ta hãy hát mừng
vì công việc Ngài làm.
7 Chúa dùng quyền năng cai trị
đời đời.
Ngài trông chừng các dân
để chúng không chống nghịch Ngài. Xê-la
8 Hỡi các dân, hãy ca ngợi Thượng Đế chúng ta;
hãy lớn tiếng hát khen Ngài.
9 Ngài bảo vệ mạng sống chúng ta,
trông nom chúng ta.
10 Lạy Thượng Đế, Ngài đã thử chúng tôi;
Ngài đã luyện chúng tôi như luyện bạc.
11 Chúa khiến chúng tôi sập bẫy,
chất gánh nặng trên chúng tôi.
12 Ngài để kẻ thù đè đầu cỡi cổ chúng tôi.
Chúng tôi đi qua lửa và lụt lội,
nhưng Chúa đưa chúng tôi đến nơi tốt lành.
13 Tôi sẽ mang của lễ thiêu vào đền thờ Chúa.
Tôi sẽ thực hiện điều tôi hứa,
14 là những điều tôi cam kết đang khi gặp khốn khó.
15 Tôi sẽ mang cho Ngài súc vật mập béo,
dâng cho Ngài chiên, bò đực và dê đực. Xê-la
16 Tất cả những ai kính sợ Chúa, hãy đến nghe,
ta sẽ cho các ngươi biết điều Chúa đã làm cho ta.
17 Miệng tôi kêu cầu cùng Thượng Đế
và lưỡi tôi hát ca ngợi Ngài.
18 Nếu lòng tôi có chứa điều ác,
chắc hẳn Chúa sẽ không nghe tôi.
19 Nhưng Thượng Đế đã nghe;
Ngài nhận lời khấn nguyện tôi.
20 Chúc tụng Thượng Đế
vì Ngài không bỏ ngoài tai lời cầu nguyện tôi
hay rút lại tình yêu Ngài đối với tôi.
Mọi người nên ca ngợi Thượng Đế
Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với nhạc khí bằng dây. Bài ca ngợi.
67 Lạy Chúa, xin thương xót chúng tôi,
xin ban phước và tỏ lòng nhân từ Ngài với chúng tôi, Xê-la
2 để thế gian học biết đường lối Ngài
và muôn dân sẽ biết quyền năng cứu chuộc của Ngài.
3 Lạy Thượng Đế, muôn dân phải ca ngợi Ngài;
mọi người hãy tôn vinh Ngài.
4 Các dân hãy vui vẻ
và hát khen Ngài vì Ngài phân xử các dân một cách công minh.
Ngài hướng dẫn các dân trên đất. Xê-la
5 Lạy Thượng Đế, muôn dân nên ca ngợi Ngài;
mọi người phải tôn vinh Chúa.
6 Đất đã sinh sản hoa màu.
Thượng Đế chúng tôi ban phúc cho chúng tôi.
7 Ngài ban phúc lành cho chúng tôi
để mọi người trên đất kính sợ Ngài.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center