M’Cheyne Bible Reading Plan
Đa-vít lên ngôi vua trên Ít-ra-en
11 Sau đó dân Ít-ra-en đến cùng Đa-vít ở Hếp-rôn và nói, “Nầy, chúng tôi là anh em ruột thịt [a] với ông. 2 Trong thời gian Sau-lơ làm vua, ông là người hướng dẫn dân Ít-ra-en ra trận. CHÚA là Thượng Đế ông nói cùng ông, ‘Ngươi sẽ là người chăn dân Ít-ra-en ta. Ngươi sẽ lãnh đạo họ.’”
3 Vậy các bô lão Ít-ra-en đến cùng vua Đa-vít tại Hếp-rôn. Ông lập giao ước với họ ở Hếp-rôn trước mặt CHÚA. Rồi họ đổ dầu lên Đa-vít lập ông làm vua Ít-ra-en. CHÚA đã hứa qua Ít-ra-en là việc phải xảy ra như thế.
Đa-vít chiếm được Giê-ru-sa-lem
4 Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en đi đến thành Giê-ru-sa-lem. Lúc đó Giê-ru-sa-lem gọi là Giê-bu, và dân sống ở đó gọi là dân Giê-bu-sít. 5 Chúng bảo Đa-vít, “Ngươi không thể nào vào thành chúng ta được đâu.” Nhưng Đa-vít chiếm thành Giê-ru-sa-lem có vách kiên cố, và nó trở nên thành Đa-vít.
6 Đa-vít nói, “Ai xung phong tấn công dân Giê-bu-sít sẽ được làm chỉ huy toàn quân đội ta.” Giô-áp con trai Xê-ru-gia hướng dẫn cuộc tấn công nên ông làm chỉ huy quân đội.
7 Sau đó Đa-vít vào cư trú trong thành có vách kiên cố ấy cho nên nó mang tên là thành Đa-vít. 8 Đa-vít xây lại thành, bắt đầu nơi người ta lấp đất cho đến vách bao quanh thành. Giô-áp sửa chữa các phần khác của thành phố. 9 Đa-vít càng ngày càng mạnh. CHÚA Toàn Năng ở cùng ông.
Ba chiến sĩ anh dũng
10 Sau đây là danh sách những người cầm đầu các chiến sĩ của Đa-vít, giúp ông thêm mạnh. Tất cả dân Ít-ra-en cũng ủng hộ nước của Đa-vít. Các anh hùng nầy và toàn dân Ít-ra-en lập Đa-vít làm vua, như CHÚA đã hứa.
11 Sau đây là danh sách các chiến sĩ của Đa-vít:
Gia-sô-bê-am người Hạc-mô-nít [b]. Ông lãnh đạo nhóm ba người [c], tức các chiến sĩ anh dũng nhất của Đa-vít. Ông dùng gươm giết sạch ba trăm người cùng một lúc.
12 Kế ông có Ê-lê-a-xa, một trong Ba Chiến sĩ. Ê-lê-a-xa là con trai Đô-đai [d] gốc dân A-hô-hít. 13 Ê-lê-a-xa có mặt với Đa-vít tại Bát Đa-mim khi quân Phi-li-tin đến tấn công. Ở đó có một đồng lúa mạch. Dân Ít-ra-en trốn chạy khỏi người Phi-li-tin, 14 nhưng họ đứng lại giữa đồng lúa đó chiến đấu và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban chiến thắng lớn cho họ.
15 Có lần, ba trong số Ba Mươi Chiến sĩ [e], tức các chiến sĩ nòng cốt của Đa-vít đến gặp ông ở tảng đá gần hang A-đu-lam. Lúc đó quân Phi-li-tin đang đóng trại trong thung lũng Rê-pha-im.
16 Lúc ấy Đa-vít đang ở trong mật khu, còn một số quân Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem. 17 Đa-vít quá khát nước nên ông nói, “Ôi, ước gì có ai đi lấy cho ta nước từ giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 18 Cho nên Ba Người [f] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước từ giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA, 19 nói rằng, “Xin CHÚA đừng để tôi uống nước nầy! Vì chẳng khác nào uống huyết của những người đã liều mạng lấy nước về cho tôi!” Cho nên Đa-vít nhất định không chịu uống. Đó là những hành vi dũng cảm của ba chiến sĩ gan dạ ấy.
Các chiến sĩ anh dũng khác
20 A-bi-sai, em Giô-áp chỉ huy Toán Ba Người. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm binh sĩ. Ông nổi danh như Ba Người, 21 nhưng được tôn trọng hơn Ba Người [g] ấy. Ông chỉ huy Toán Ba Người dù không thuộc về toán nầy.
22 Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa là một chiến sĩ gan dạ [h] từ Cáp-xê-ên, thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số các chiến sĩ xuất sắc nhất của Mô-áp. Ông cũng xuống hầm đá giết một con sư tử vào một ngày tuyết rơi. 23 Bê-na-gia giết một người Ai-cập cao khoảng bảy bộ rưỡi [i] và có cây giáo lớn như trục thợ dệt. Bê-na-gia chỉ có một dùi cui trong tay nhưng ông giựt cây giáo ra khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 24 Đó là những chiến công của Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông nổi tiếng như Toán Ba Người. 25 Ông được tôn trọng hơn Toán Ba Mươi nhưng không thuộc Toán Ba Người. Đa-vít cử ông chỉ huy toán hộ vệ cho mình.
Ba Mươi chiến sĩ nồng cốt
26 Sau đây là danh sách các chiến sĩ anh dũng: A-xa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con trai Đô-đô người Bết-lê-hem; 27 Sa-mốt người Ha-rô-rít; Hê-lê người Bê-lô-nít; 28 Y-ra, con Ích-kê, từ Thê-cô-a; A-bi-ê-xe người A-na-thốt; 29 Xi-bê-cai người Hu-sa-thít; Y-lai người A-hô-hít; 30 Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; Hê-lết, con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; 31 Y-thai, con Ri-bai, từ Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; Bê-na-gia người Phi-ra-thô-nít; 32 Ha-rai từ vùng hố của Ga-ách; A-bi-ên người Ác-ba-thít; 33 A-ma-vết, người Ba-ha-ru-mít; Ê-li-a-ba người Sa-anh-bô-nít; 34 các con trai của Ha-xem người Ghi-xôn; Giô-na-than con trai Sa-ghê, người Ha-ra-rít; 35 A-hi-am con trai Xa-ca người Ha-ra-rít; Ê-li-phanh, con U-rơ; 36 Hê-phe người Mê-kê-ra-thít; A-hi-gia người Bê-lô-nít; 37 Hết-rô người Cạt-mên; Na-a-rai, con Ết-bai; 38 Giô-ên em Na-than; Míp-ha con trai Hát-ri; 39 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-rô-thít, sĩ quan vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. 40 Y-ra người Ích-rít; Ga-rếp người Ích-rít; 41 U-ri người Hi-tít; Xa-bát con trai A-lai; 42 A-đi-na, con trai Si-xa người Ru-bên, đồng thời là lãnh tụ của người Ru-bên cùng ba mươi binh sĩ mình; 43 Ha-nan con trai Ma-a-ca; Giô-xa-phát người Mích-nít; 44 U-xia người Ách-tê-ra-thít; Sa-ma và Giê-i-ên con trai Hô-tham người A-rô-e-rít; 45 Giê-đi-a-ên con trai Xim-ri; Giô-ha, em Giê-đi-a-ên, người Thi-xít; 46 Ê-li-ên người Ma-ha-vít; Giê-ri-bai và Giô-sa-via, hai con trai của Ên-a-am; Ít-ma người Mô-áp; 47 Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên người Mê-xô-ba-ít.
Các chiến sĩ gan dạ gia nhập hàng ngũ Đa-vít
12 Sau đây là những người đến gặp Đa-vít ở Xiếc-lác khi ông đang trốn tránh Sau-lơ, con của Kích. Họ là những chiến sĩ giúp Đa-vít trong chiến trận. 2 Họ đến mang theo cung tên làm vũ khí và có thể dùng tay phải lẫn tay trái để bắn cung hay ném đá. Những người nầy là thân nhân của Sau-lơ thuộc chi tộc Bên-gia-min. 3 Thủ lãnh của họ là A-hi-ê-xe, và Giô-ách. A-hi-ê-xe và Giô-ách là con của Sê-ma-a, thuộc thị trấn Ghi-bê-a. Sau đó có Giê-xi-ên và Bê-lết, con trai A-ma-vết. Có Bê-ra-ca và Giê-hu từ thị trấn A-na-thốt. 4 Ngoài ra có Ích-mai-gia từ thị trấn Ghi-bê-ôn; ông thuộc Toán Ba Mươi. Thật ra ông là thủ lãnh toán đó. Rồi đến Giê-rê-mi, Gia-ha-xi-ên, Giô-ha-nan, và Giô-xa-bát từ Ghê-đê-ra. 5 Có Ê-lu-xai, Giê-ri-mốt, Bê-a-lia, và Sê-ma-ria. Có Sê-pha-tia từ Ha-rúp. 6 Có Ên-ca-na, Ích-si-a, A-xa-rên, Giô-ê-xe, và Gia-sô-bim từ họ hàng Cô ra. 7 Có Giê-ô-la và Xê-ba-đia, hai con của Giê-hô-ram từ thị trấn Ghê-đo.
Người Gát
8 Một phần của dân Gát nhập hàng ngũ Đa-vít ở mật khu ông trong sa mạc. Họ đều là các chiến sĩ gan dạ được huấn luyện tác chiến, có tài dùng thuẫn và giáo. Họ hung hăng như sư tử và lanh lẹ như hoàng dương trên đồi.
9 Ê-xe đứng đầu chỉ huy quân đội Gát, thứ hai là Áp-đia. Ê-li-áp đứng thứ ba, 10 Mi-ma-na đứng thứ tư, Giê-rê-mi thứ năm, 11 Át-tai thứ sáu, Ê-li-ên thứ bảy, 12 Giô-ha-nan thứ tám, Ên-xa-bát thứ chín, 13 Giê-rê-mi thứ mười, và Mác-ban-nai thứ mười một trong hàng chỉ huy.
14 Đó là các viên chỉ huy trong quân đội Gát. Người cấp thấp nhất trong số đó chỉ huy một trăm chiến sĩ, còn cấp cao nhất chỉ huy một ngàn chiến sĩ [j]. 15 Họ băng qua sông Giô-đanh, đánh đuổi dân ở trong thung lũng đi, khiến chúng chạy sang phía Đông và Tây. Việc đó xảy ra vào tháng giêng trong năm khi nước sông Giô-đanh ngập thung lũng.
Các chiến sĩ khác đi theo Đa-vít
16 Người từ chi tộc Bên-gia-min và Giu-đa cũng đến theo Đa-vít ở mật khu. 17 Đa-vít đi ra gặp họ và bảo, “Nếu anh em đến với tinh thần hòa bình để giúp tôi thì tôi hết sức hoan nghênh. Hãy gia nhập hàng ngũ tôi. Nhưng nếu anh em đến để trao tôi cho kẻ thù mặc dù tôi không làm gì quấy thì nguyện Thượng Đế của tổ tiên chúng ta sẽ thấy và trừng phạt anh em.”
18 Thần Linh CHÚA cảm động A-ma-sai, thủ lãnh của Toán Ba Mươi [k]. Ông nói:
“Hỡi Đa-vít, chúng tôi thuộc về ông.
Hỡi con trai Gie-xê,
chúng tôi đồng lòng với ông.
Chúc ông thành công, thành công.
Nguyện những ai giúp ông cũng thành công,
vì Thượng Đế ông phù hộ ông.”
Vì thế Đa-vít tiếp đón các người đó và lập họ làm chỉ huy quân lực mình.
19 Một số người Ma-na-xe cũng gia nhập hàng ngũ Đa-vít khi ông đi cùng với quân Phi-li-tin đánh Sau-lơ. Nhưng Đa-vít và những kẻ đi theo không thực tâm giúp quân Phi-li-tin. Sau khi thảo luận với nhau thì các thủ lãnh Phi-li-tin quyết định đuổi Đa-vít đi. Họ bảo, “Nếu hắn trở về cùng Sau-lơ chủ hắn thì chúng mình sẽ đều chết hết.” 20 Sau đây là những người Ma-na-xe đi theo Đa-vít khi ông xuống Xiếc-lác: Ách-na, Giô-xa-bát, Giê-đi-a-ên, Mi-chên, Giô-xa-bát, Ê-li-hu, và Xinh-lê-thai. Tất cả đều là tướng lãnh [l] xuất thân từ chi tộc Ma-na-xe. 21 Tất cả những người Ma-na-xe nầy đều là các chiến sĩ gan dạ đã giúp Đa-vít tiêu trừ các toán quấy rối khi chúng cướp bóc dân chúng. Họ trở thành cấp chỉ huy trong quân lực Đa-vít.
22 Mỗi ngày càng có nhiều người theo Đa-vít. Quân lực ông càng ngày càng lớn như quân lực của Thượng Đế.
Thêm một số người theo Đa-vít
23 Sau đây là số binh sĩ sẵn sàng ra trận đã gia nhập hàng ngũ Đa-vít ở Hếp-rôn. Họ đến để giúp trao nước từ tay Sau-lơ qua Đa-vít y như CHÚA đã nói.
24 Từ chi tộc Giu-đa có sáu ngàn tám trăm người mang vũ khí. Họ mang khiên và giáo.
25 Từ chi tộc Xi-mê-ôn có bảy ngàn một trăm người. Tất cả đều là chiến sĩ sẵn sàng ra trận.
26 Từ chi tộc Lê-vi có bốn ngàn sáu trăm người. 27 Giê-hô-gia-đa, một lãnh tụ thuộc gia đình A-rôn cũng có trong nhóm đó. Cùng đi với ông có ba ngàn bảy trăm người. 28 Xa-đốc cũng có trong nhóm đó. Ông là một tay chiến sĩ gan dạ, cùng đi với ông có hai mươi hai trưởng gia đình.
29 Có ba ngàn người từ chi tộc Bên-gia-min là thân nhân của Sau-lơ. Hầu hết các người nầy đã trung thành với gia đình cho đến bấy giờ.
30 Từ chi tộc Ép-ra-im có hai mươi ngàn tám trăm người. Họ đều là các chiến sĩ gan dạ và nổi tiếng trong họ hàng mình.
31 Từ chi tộc Ma-na-xe miền Tây có mười tám ngàn người. Mỗi người được chọn lựa đặc biệt để cử Đa-vít làm vua.
32 Có hai trăm thủ lãnh từ chi tộc Y-xa-ca. Họ biết Ít-ra-en phải làm gì và cũng biết lúc nào phải làm nữa. Các thân nhân họ cùng đi với họ và nằm dưới quyền chỉ huy của họ.
33 Từ chi tộc Xê-bu-lôn có năm mươi ngàn người. Họ đều là chiến sĩ tinh nhuệ, có khả năng sử dụng đủ mọi khí giới chiến tranh. Họ hết lòng theo Đa-vít.
34 Có một ngàn sĩ quan từ chi tộc Nép-ta-li. Ba mươi bảy ngàn binh sĩ đi với họ mang theo thuẫn và giáo.
35 Từ chi tộc Đan có hai mươi tám ngàn sáu trăm người sẵn sàng ra trận.
36 Bốn mươi ngàn lính thiện chiến từ chi tộc A-se sẵn sàng ra trận.
37 Một trăm hai mươi ngàn binh sĩ từ miền Đông sông Giô-đanh đến từ các chi tộc Ru-bên, Gát và Ma-na-xe miền Đông. Họ biết dùng đủ loại khí giới.
38 Tất cả các chiến sĩ đó đều sẵn sàng ra trận. Họ cùng nhau đến Hếp-rôn để lập Đa-vít làm vua trên cả Ít-ra-en. Tất cả các người Ít-ra-en khác cũng đồng ý lập Đa-vít làm vua. 39 Họ ở với Đa-vít ba ngày, ăn uống vì thân nhân họ đã chuẩn bị thức ăn cho họ. 40 Ngoài ra các láng giềng của họ đến từ những nơi xa như Y-xa-ca, Xê-bu-lôn, và Nép-ta-li, mang thực phẩm trên lừa, lạc đà, la, và bò. Họ đem đến rất nhiều bột mì, bánh trái vả, nho khô, rượu, dầu, bò cái, chiên cừu, vì dân Ít-ra-en đang tưng bừng mở hội.
13 Hãy yêu nhau như anh chị em. 2 Hãy niềm nở tiếp đón khách vào nhà vì có người đã vô tình tiếp đón thiên sứ mà không biết. 3 Hãy nhớ những người bị tù tội như thể mình cũng đồng tù với họ. Hãy nhớ những kẻ đang chịu khổ như thể mình cũng chịu khổ với họ.
4 Mọi người phải kính trọng hôn nhân, vợ chồng phải giữ hôn nhân cho tinh sạch. Thượng Đế sẽ kết tội những kẻ phạm tội ngoại tình và các hình thức khác của tội nhục dục. 5 Hãy tránh việc tham tiền trong cuộc sống. Hãy bằng lòng với những gì mình có. Thượng Đế đã hứa,
“Ta không bỏ ngươi;
Ta không rời ngươi đâu.” (A)
6 Cho nên chúng ta vững vàng khi nói,
“Tôi không sợ gì cả
vì Chúa là Đấng giúp đỡ tôi.
Con người không làm gì được tôi.” (B)
7 Hãy nhớ những người lãnh đạo đã dạy lời của Thượng Đế cho mình. Hãy nhớ cách họ sống và chết ra sao mà học đòi đức tin họ. 8 Chúa Cứu Thế Giê-xu hôm qua, ngày nay và muôn đời không thay đổi.
9 Đừng để những lời dạy dỗ xa lạ dắt dẫn anh chị em lầm lạc. Lòng anh chị em phải vững mạnh nhờ ân phúc chứ không phải nhờ vâng theo các qui tắc ăn uống, là những qui tắc không ích gì cho người vâng giữ.
10 Chúng ta có một sinh tế [a] mà các thầy tế lễ phục vụ nơi Lều Thánh không được phép ăn. 11 Thầy tế lễ tối cao mang huyết thú vật vào Nơi Chí Thánh [b] để dâng lên làm của lễ chuộc tội. Nhưng xác thú vật thì đem đốt ngoài vòng đai của doanh trại. 12 Cho nên Chúa Giê-xu cũng đã chịu khổ bên ngoài thành để thánh hóa dân Ngài bằng chính huyết Ngài. 13 Chúng ta cũng hãy đi ra ngoài vòng đai của doanh trại đến cùng Chúa Giê-xu để cùng chịu sỉ nhục như Ngài. 14 Trên đất nầy chúng ta không có thành còn muôn đời nhưng chúng ta trông đợi một thành chúng ta sẽ có trong tương lai. 15 Cho nên, qua Chúa Giê-xu chúng ta hãy luôn luôn dâng lên Thượng Đế sinh tế của chúng ta bằng lời ca ngợi từ môi miệng xưng nhận Ngài. 16 Hãy luôn đối xử tốt với kẻ khác, chia xẻ của cải với họ vì những sự hi sinh như thế đẹp lòng Thượng Đế.
17 Hãy vâng lời các bậc lãnh đạo và phục tùng quyền hành của họ. Họ chăm sóc linh hồn anh chị em vì họ chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về anh chị em. Hãy vâng lời họ để họ thi hành nhiệm vụ một cách vui vẻ chứ không buồn rầu. Đừng gây khó khăn cho công việc của họ vì chẳng ích gì cho anh chị em.
18 Hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi biết chắc mình có lương tâm trong sạch vì chúng tôi luôn muốn làm điều phải. 19 Đặc biệt, tôi nài xin anh chị em cầu nguyện để Thượng Đế sẽ sớm sai tôi đến cùng anh chị em.
20-21 Tôi cầu Thượng Đế hòa bình ban cho anh chị em đủ mọi điều tốt lành để làm theo ý Ngài. Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu chúng ta sống lại từ trong kẻ chết, Ngài là Đấng Chăn Chiên Cao Cả do huyết Ngài đã đổ ra. Huyết Ngài khởi đầu giao ước muôn đời mà Thượng Đế đã lập với dân Ngài. Tôi cầu xin Thượng Đế thực hiện trong chúng ta điều đẹp lòng Ngài, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nguyền vinh hiển thuộc về Ngài đời đời. A-men.
22 Thưa anh chị em, tôi nài xin anh chị em hãy nhẫn nhục vâng theo lời tôi viết đây vì thư nầy không dài lắm đâu. 23 Tôi muốn anh chị em biết rằng anh em chúng ta là Ti-mô-thê đã được thả. Nếu anh ấy sớm đến với anh chị em thì cả hai chúng tôi sẽ gặp lại anh chị em.
24 Hãy chào hết các bậc lãnh đạo của anh chị em và các con dân Thượng Đế. Những anh em từ nước Ý chào thăm anh chị em.
25 Nguyền xin ân phúc ở với tất cả anh chị em.
Sự hiện thấy về cào cào
7 CHÚA là Thượng-Đế cho ta thấy việc sau đây: Ngài tạo ra một bầy cào cào, sau khi vua đã thu phần mùa màng đầu tiên của mình và mùa màng thứ hai bắt đầu mọc. 2 Khi cào cào ăn hết mùa màng trong xứ, tôi thưa, “CHÚA ôi, xin tha tội cho chúng tôi. Làm sao dân Ít-ra-en sống nổi qua cảnh nầy được? Dân đó đã quá nhỏ bé rồi!”
3 Nên CHÚA đổi ý về việc nầy. CHÚA phán, “Chuyện đó sẽ không xảy ra.”
Sự hiện thấy về đám lửa
4 CHÚA cho ta thấy việc nầy: Ngài gọi lửa từ trời xuống như mưa, thiêu đốt nước sâu và sắp sửa thiêu đốt đất. 5 Tôi vội vàng kêu lên, “Xin ngưng tay, CHÚA ôi! Làm sao Ít-ra-en sống qua cảnh nầy được? Dân nó đã quá nhỏ bé rồi.”
6 Nên CHÚA đổi ý về việc nầy. CHÚA phán, “Chuyện đó sẽ không xảy ra.”
Sự hiện thấy về dây thước thợ
7 CHÚA cho ta thấy việc nầy: Ngài đứng bên cạnh một bức tường thẳng đứng, trong tay cầm dây thước thợ [a]. 8 CHÚA hỏi, “A-mốt, ngươi thấy gì?”
Tôi đáp, “Một dây thước thợ.”
CHÚA liền bảo, “Thấy không, ta sẽ dùng dây thước thợ trong dân Ít-ra-en để cho thấy chúng cong vẹo như thế nào. Ta sẽ không thể nào làm ngơ được nữa.
9 Những nơi con cháu Y-sác thờ lạy
sẽ bị hủy diệt,
các nơi thánh của Ít-ra-en
sẽ bị phá hủy,
ta sẽ dùng gươm tấn công
gia đình Giê-rô-bô-am [b].”
A-ma-xia chống báng A-mốt
10 A-ma-xia, thầy tế lễ ở Bê-tên [c], trình với Giê-rô-bô-am, vua Ít-ra-en như sau: “A-mốt đang lập mưu ác nghịch vua và dân Ít-ra-en. Ông ta nói quá nhiều đến nỗi đất nầy không chịu nổi nữa. 11 A-mốt nói như sau: ‘Giê-rô-bô-am sẽ chết vì lưỡi gươm, còn dân Ít-ra-en sẽ bị bắt làm tù-binh, bị đày ra khỏi xứ mình.’”
12 Rồi A-ma-xia bảo A-mốt, “Ê nhà tiên kiến, hãy trở về Giu-đa ngay. Về đó mà nói tiên tri và kiếm ăn đi [d], 13 nhưng đừng nói tiên tri ở Bê-tên đây nữa. Chỗ nầy là nơi thánh của vua, nơi có đền thờ quốc gia.”
14 A-mốt trả lời với A-ma-xia, “Tôi không kiếm ăn bằng nghề nói tiên tri cũng chẳng thuộc vào nhóm các nhà tiên tri. Tôi sinh sống bằng nghề chăn chiên, và chăm sóc các cây sung. 15 Nhưng CHÚA rút tôi ra khỏi nghề chăn chiên và bảo tôi, ‘Hãy đi nói tiên tri cùng dân Ít-ra-en ta.’ 16 Cho nên hãy nghe lời CHÚA phán.
Ngươi bảo ta, ‘Đừng nói tiên tri
nghịch cùng Ít-ra-en,
hãy thôi nói tiên tri
nghịch cùng con cháu Y-sác.’
17 Vì ngươi đã nói vậy nên CHÚA phán:
‘Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành,
con trai con gái ngươi sẽ bị gươm giết.
Người khác sẽ đo ruộng đất ngươi
và chia chác với nhau;
còn ngươi sẽ bỏ xác nơi xứ người [e].
Dân Ít-ra-en chắc chắn sẽ bị bắt
làm tù binh và bị lưu đày
ra khỏi quê hương mình.’”
Sự Giáng Sinh của Chúa Giê-xu(A)
2 Lúc ấy Xê-xa Au-gút-tơ ra sắc lệnh cho tất cả công dân thuộc các quốc gia dưới quyền của đế quốc La-mã phải đăng bộ. 2 Đây là lần đăng bộ [a] đầu tiên được thực hiện khi Qui-ri-niu làm tổng đốc xứ Xy-ri. 3 Mọi người đều trở về nguyên quán để đăng bộ.
4 Vì Giô-xép thuộc dòng họ Đa-vít, nên ông từ Na-xa-rét, một thị trấn miền Ga-li-lê, đi đến Bết-lê-hem thuộc miền Giu-đia, cũng gọi là thành Đa-vít. 5 Ông đăng bộ cùng với Ma-ri là người đã hứa hôn [b] với mình, lúc ấy đang mang thai. 6 Trong khi hai người ở đó, thì Ma-ri đến ngày sinh. 7 Cô sinh con trai đầu lòng, lấy vải bọc em bé và đặt nằm trong máng ăn súc vật, vì quán trọ không còn chỗ.
Các anh chăn chiên nghe tin Chúa Giê-xu sinh ra
8 Đêm ấy, có mấy anh chăn chiên thức canh bầy giữa đồng trống. 9 Bỗng một thiên sứ của Chúa xuất hiện trước mặt họ. Vinh quang của Chúa chói lòa xung quanh. Các anh chăn chiên hốt hoảng. 10 Thiên sứ liền trấn an, “Đừng sợ. Tôi báo cho các anh một tin mừng, sẽ là niềm vui lớn cho toàn dân. 11 Hôm nay Đấng Cứu Thế đã được sinh ra trong thành Đa-vít. Ngài là Cứu Chúa. 12 Đây là dấu hiệu để các anh nhận ra Ngài: Các anh sẽ gặp một hài nhi bọc bằng vải, nằm trong máng ăn súc vật.”
13 Rồi một đoàn thiên sứ rất đông từ thiên đàng nhập cùng với vị thiên sứ đầu tiên, ca vang lời chúc tụng Thượng Đế:
14 “Vinh danh Thánh Chúa trên trời,
Hòa bình dưới thế cho kẻ làm vui lòng Ngài.”
15 Sau khi các thiên sứ trở về thiên đàng, mấy anh chăn chiên bảo nhau, “Chúng ta hãy đi đến Bết-lê-hem để xem sự việc mà Chúa đã báo cho chúng ta.”
16 Nên họ vội vàng ra đi tìm gặp được Ma-ri, Giô-xép và hài nhi mới sinh đang nằm trong máng ăn súc vật. 17 Khi thấy hài nhi họ liền thuật lại lời thiên sứ nói về hài nhi ấy. 18 Ai nấy đều kinh ngạc về lời của các anh chăn chiên. 19 Nhưng Ma-ri ấp ủ và suy nghĩ những lời ấy trong lòng. 20 Các anh chăn chiên trở về, ca ngợi và cảm tạ Thượng Đế về những gì họ đã nghe và thấy như lời thiên sứ đã bảo họ.
21 Tám ngày sau khi sinh ra, hài nhi được cắt dương bì và đặt tên là Giê-xu, tức là tên mà thiên sứ đã đặt cho trước khi Ma-ri mang thai.
Chúa Giê-xu được dâng nơi đền thờ
22 Khi đến kỳ Ma-ri và Giô-xép phải thi hành những điều đã qui định theo luật Mô-se về lễ tẩy sạch [c], hai ông bà đem hài nhi Giê-xu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa. 23 Vì luật pháp Chúa có ghi: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng cho Chúa.” [d] 24 Ma-ri và Giô-xép cũng mang theo một của lễ để dâng theo luật Chúa viết: “Các ngươi phải dâng hai con chim cu hoặc hai con bồ câu con.” [e]
Xi-mê-ôn gặp Chúa Giê-xu
25 Ở Giê-ru-sa-lem có một người tên Xi-mê-ôn. Ông là một người đạo đức và thánh thiện. Ông chờ đợi lúc Thượng Đế cất sự đau khổ khỏi dân Ít-ra-en. Ông là người có Thánh Linh ngự. 26 Xi-mê-ôn được Thánh Linh cho biết là ông sẽ không chết trước khi gặp Đấng Cứu Thế mà Chúa đã hứa. 27 Thánh Linh hướng dẫn Xi-mê-ôn lên đền thờ đúng lúc Ma-ri và Giô-xép mang hài nhi Giê-xu đến để thi hành những điều mà luật pháp qui định. 28 Xi-mê-ôn bế em bé trong tay và cảm tạ Thượng Đế như sau:
29 “Lạy Chúa, bây giờ xin cho kẻ tôi tớ Chúa qua đời bình an
theo như Ngài đã nói trước.
30 Vì mắt con đã thấy hài nhi mà Ngài đã chuẩn bị để cứu chúng con,
31 mọi dân tộc sẽ thấy điều ấy.
32 Ngài là ánh sáng soi đường cho các dân không phải Do-thái
và đem vinh dự lớn cho dân Ngài, tức dân Ít-ra-en.”
33 Cha và mẹ của Chúa Giê-xu rất ngạc nhiên về điều Xi-mê-ôn nói về em bé. 34 Rồi Xi-mê-ôn chúc phước cho gia đình và bảo Ma-ri, “Thượng Đế đã chọn em nầy để gây vấp ngã và giục giã cho nhiều người trong Ít-ra-en. Em nầy sẽ là một dấu hiệu từ Thượng Đế, mà nhiều người không chấp nhận, 35 để cho ý tưởng của nhiều người được phơi bày ra. Còn những gì xảy ra sẽ làm cho chị rất đau lòng.”
Bà An-na gặp Chúa Giê-xu
36 Có một nữ tiên tri tên An-na, xuất thân từ gia đình Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. An-na đã cao tuổi lắm. Sau khi lập gia đình, bà sống với chồng được bảy năm 37 rồi ở góa, đến nay đã tám mươi bốn tuổi. An-na không khi nào ra khỏi đền thờ nhưng bà trung tín thờ phụng Thượng Đế, cữ ăn và cầu nguyện ngày và đêm. 38 Lúc Xi-mê-ôn nói, bà cũng đang đứng đó. Bà cảm tạ Thượng Đế và thuật về hài nhi Giê-xu cho những người trông chờ Thượng Đế giải phóng Giê-ru-sa-lem.
Giô-xép và Ma-ri trở về nhà
39 Sau khi Giô-xép và Ma-ri thi hành xong những điều luật pháp Chúa qui định, thì trở về quê nhà ở Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê. 40 Cậu bé dần dần khôn lớn và mạnh mẽ, ân phúc của Thượng Đế ở cùng cậu.
Cậu thiếu niên Giê-xu
41 Mỗi năm cha mẹ Chúa Giê-xu lên thành Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt qua. 42 Lúc Ngài được mười hai tuổi thì cả gia đình lên dự lễ như vẫn thường làm. 43 Sau các ngày lễ thì gia đình lên đường trở về nhà. Nhưng cậu Giê-xu ở nán lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ cậu không hay biết. 44 Hai người đi suốt một ngày đường, cứ yên trí cậu đi về chung với đồng bạn. Sau đó mới bắt đầu hỏi thăm tìm cậu trong đám thân nhân và bạn hữu. 45 Tìm không ra nên hai người liền đi trở lại Giê-ru-sa-lem để kiếm. 46 Mãi ba ngày sau, họ mới tìm được cậu đang ngồi trong đền thờ chung với các giáo sư luật, vừa nghe vừa hỏi. 47 Ai nghe cậu cũng lấy làm ngạc nhiên về trí thông minh và những câu trả lời của cậu. 48 Lúc cha mẹ tìm được cậu thì cả hai người đều sửng sốt. Mẹ cậu hỏi, “Con ơi, sao con đối với cha mẹ như thế nầy? Cha mẹ hết sức lo âu cho con và đã kiếm con khắp nơi!”
49 Cậu Giê-xu thưa, “Cha mẹ kiếm con làm gì? Cha mẹ không biết con phải ở trong nhà của Cha con sao?” 50 Nhưng cả hai người đều không hiểu cậu nói gì.
51 Chúa Giê-xu trở về Na-xa-rét và vâng phục cha mẹ. Còn mẹ Ngài ghi nhớ vào lòng những chuyện đã xảy ra. 52 Chúa Giê-xu càng trở nên khôn lớn. Mọi người và Thượng Đế đều quí mến cậu.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center