Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Giô-suê 18-19

Chia Các Lãnh Thổ Còn Lại

18 Toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên họp tại Si-lô và dựng Trại Hội Kiến lên. Khắp đất nước đều đặt dưới quyền kiểm soát của họ, nhưng vẫn còn bảy bộ tộc Y-sơ-ra-ên chưa nhận được cơ nghiệp mình.

Vậy, Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi còn đợi cho đến bao giờ mới bắt đầu chiếm lãnh thổ mà CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi. Mỗi bộ tộc hãy chỉ định ba người, ta sẽ sai họ ra đi khảo sát địa hình rồi viết bản báo cáo về cơ nghiệp của bộ tộc mình. Lúc ấy họ sẽ quay về với ta. Các ngươi phải chia đất ra làm bảy phần. Giu-đa phải ở lại trong lãnh thổ phía nam và nhà Giô-sép thì ở lãnh thổ phương bắc. Sau khi các ngươi viết bảng tường trình về bảy phần đất, hãy đem đến đây cho ta, ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa các ngươi vì chức vụ tế lễ cho CHÚA là cơ nghiệp của họ. Các bộ tộc Gát, Ru-bên và nửa bộ tộc Ma-na-se đã lãnh được lãnh thổ phía đông sông Giô-đanh mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã cho họ làm sản nghiệp.”

Khi họ bắt đầu ra đi vẽ bản đồ xứ này, Giô-suê còn cho chỉ thị: “Các ngươi hãy ra đi khảo sát vùng đất này và viết bài mô tả rồi quay về với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại Si-lô trước mặt CHÚA.” Vậy, họ lên đường và đi suốt cả đất nước, viết trong cuộn da bài mô tả từng thành phố cả bảy phần đất rồi quay về với Giô-suê trong trại quân tại Si-lô. 10 Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt CHÚA, và cũng tại đây, ông chia lãnh thổ cho dân Y-sơ-ra-ên tùy theo bộ tộc họ.

Chia Đất Cho Bên-gia-min

11 Phần đất bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Bên-gia-min, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ nằm giữa bộ tộc Giu-đa và bộ tộc Giô-sép.

12 Ranh giới họ về phía bắc, khởi đi từ sông Giô-đanh, chạy lên phía bắc sườn núi Giê-ri-cô, hướng về phía tây lên đến vùng đồi núi rồi chạy về sa mạc Bết A-ven. 13 Từ đó, ranh giới vượt qua phía nam sườn núi Lu-xơ (tức là Bê-tên), rồi đi xuống A-ta-rốt A-đa trên đồi phía nam của Bết Hô-rôn hạ.

14 Từ ngọn đồi đối ngang Bết Hô-rôn về phía nam, ranh giới chạy xuống miền nam dọc theo phía tây cho đến khi giáp thành Ki-ri-át Ba-anh (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim), một thành của dân Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây.

15 Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành Ki-ri-át Giê-a-rim về phía tây chạy về suối nước Nép-thô-ách. 16 Ranh giới đi xuống phía chân đồi đối ngang trũng Bên Hi-nôm ở phía bắc trũng Rê-pha-im, tiếp tục xuống trũng Hi-nôm dọc theo sườn núi phía nam của thành dân Giê-bu-sít cho đến Ên Rô-ghên. 17 Ranh giới vòng lên phía bắc đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt đối ngang đèo A-đu-mim cho đến tận tảng đá Bô-han (tên con của Ru-bên). 18 Ranh giới tiếp tục chạy lên sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba. 19 Rồi ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, đến giáp vịnh phía bắc của Biển Mặn tại cửa sông Giô-đanh về phía nam. Đó là ranh giới về phía nam.

20 Sông Giô-đanh làm ranh giới về phía đông.

Đó là ranh giới tứ phía của cơ nghiệp của gia tộc Bên-gia-min.

21 Bộ tộc Bên-gia-min được các thành sau đây theo từng gia tộc:

Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, 22 Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23 A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24 Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni và Ghê-ba: cộng lại là mười hai thành và các làng phụ cận;

25 Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26 Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, 27 Rê-kem, Diệt Bê-ên, Tha-rê-a-la, 28 Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.

Đó là phần cơ nghiệp của dòng dõi Bên-gia-min.

Chia Đất Cho Si-mê-ôn

19 Phần đất thứ hai bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp họ nằm giữa cơ nghiệp của người Giu-đa. Lãnh thổ họ gồm có Bê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa, Hát-sa Su-anh, Ba-la, Ê-xem, Ên-thô-lát, Bê-thu, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa, Bết Lê-ba-ốt và Sê-a-ru-chen: cộng lại được mười ba thành với các làng phụ cận;

A-in, Rim-môn, Ê-the và A-san: cộng lại được bốn thành và các làng phụ cận; luôn tất cả các làng xung quanh các thành ấy cho đến Ba-lát-bê-e (tức là Ra-ma ở miền nam).

Đó là cơ nghiệp của bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp của dân Si-mê-ôn là một phần đất của Giu-đa lấy chia cho họ vì lãnh thổ của Giu-đa quá lớn. Vậy, người Si-mê-ôn nhận cơ nghiệp mình trong lãnh thổ Giu-đa.

Chia Đất Cho Sa-bu-luân

10 Phần đất thứ ba bắt trúng nhằm bộ tộc Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.

Ranh giới cơ nghiệp họ chạy đến tận Sa-ríp, 11 qua phía tây chạy đến Ma-rê-a-la, giáp Đáp-bê-sết và kéo dài đến khe gần Giốc-nê-am. 12 Từ Sa-ríp quay về phía đông hướng mặt trời mọc, ranh giới chạy đến lãnh thổ Kít-lốt Tha-bô và đi về phía Đáp-rát, lên đến Gia-phia. 13 Từ đó ranh giới chạy về phía đông cho đến Gát Hê-phê và Ết-cát-sin, kéo dài từ Rim-môn và quay sang Nê-a. 14 Từ đó, ranh giới chạy quanh lên phía bắc cho đến Ha-na-thôn và chấm dứt ở trũng Díp-tha-ên; 15 gồm có các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la và Bết-lê-hem: cộng lại là mười thành và các làng phụ cận.

16 Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.

Chia Đất Cho Y-sa-ca

17 Phần đất thứ tư bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc. 18 Lãnh thổ họ gồm có:

Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem, 19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-cha-rát, 20 Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết, 21 Rê-mết, Ên Ga-nim, Ên Ha-đa và Bết Phát-sết. 22 Ranh giới đi ngang Tha-bô, Sa-chát-si-ma và Bết-sê-mết rồi giáp sông Giô-đanh: cộng lại được mười sáu thành với các làng phụ cận.

23 Các thành với các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc.

Chia Đất Cho A-se

24 Phần đất thứ năm bắt thăm trúng nhằm bộ tộc A-se, theo từng gia tộc. 25 Lãnh thổ họ gồm có:

Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ạc-sáp, 26 A-lam-mê-léc, A-mê-át và Mi-sê-anh. Phía tây, ranh giới đụng Cạt-mên và Shi-he Líp-na, 27 quay sang phía đông về hướng Bết Đa-gôn đụng đất Sa-bu-luân và trũng Díp-tha-ên rồi quay về phía bắc cho đến Bết Ê-méc và Nê-ên, chạy ngang Ca-bun về phía tả, 28 đi về Ếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn và Ca-na đến tận ngoại thành Si-đôn. 29 Từ đó, ranh giới quay về hướng Ra-ma, đến thành kiên cố Ty-rơ quay sang Hô-sa, ra đến tận biển vùng Ạc-xíp, 30 U-ma, A-phéc và A-mốt, cộng được hai mươi hai thành và các làng mạc phụ cận.

31 Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của A-se, theo từng gia tộc.

Chia Đất Cho Nép-ta-li

32 Phần đất thứ sáu bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.

33 Ranh giới chạy từ Hê-lép và cây cổ thụ ở Sa-na-nim đi về A-đa-mi Nê-kép và Giáp-nê-ên đến Lạc-cung rồi giáp sông Giô-đanh. 34 Ranh giới chạy về phía tây qua Át-nốt Tha-bô đến Hục-cốc; phía nam giáp đất Sa-bu-luân, phía tây giáp đất A-se và phía đông giáp sông Giô-đanh. 35 Các thành kiên cố là: Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết, 36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so, 37 Kê-đe, Ên Rê-i, Ên Hát-so, 38 Gi-rê-ôn, Mít-đa Ên, Hô-rem, Bết A-nát và Bết Sê-mết: cộng lại là mười chín thành và các làng phụ cận.

39 Các thành và các làng đó là cơ nghiệp bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.

Chia Đất Cho Đan

40 Phần đất thứ bảy bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Đan, theo từng gia tộc. 41 Lãnh thổ cơ nghiệp họ gồm có:

Xô-rê-a, Ết-tha-ôn, Yết Sê-mết, 42 Sa-ba-bin, A-gia-lôn, Gít-la, 43 Ê-lôn, Thim-na-tha, Éc-rôn, 44 Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát, 45 Giê-hút, Bê-nê Bê-rác, Gát Rim-môn, 46 Mê Giạt-côn và Ra-côn với vùng đất đối ngang Gia-phô.

47 Nhưng người Đan gặp trở ngại không thể chiếm được lãnh thổ chia cho mình, nên họ lên tấn công Lê-sem, hạ thành ấy và dùng gươm giết dân cư rồi chiếm đóng thành này. Họ định cư tại Lê-sem rồi lấy tên Đan đặt cho thành này theo tên tổ phụ mình. 48 Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Đan, theo từng gia tộc.

Chia Đất Cho Giô-suê

49 Sau khi chia đất thành từng miền cho các bộ tộc xong, người Y-sơ-ra-ên tặng Giô-suê, con trai Nun, một cơ nghiệp ở giữa họ 50 theo lệnh của CHÚA. Họ tặng người thành mà người yêu cầu: Thim-nát Sê-rách trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Giô-suê xây thành và định cự tại đó.

51 Đó là các lãnh thổ mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun và các nhà lãnh đạo của các gia tộc tông bộ tộc Y-sơ-ra-ên đã bắt thăm chia đất tại Si-lô trước mặt CHÚA, nơi lối vào Trại Hội Kiến. Như vậy, họ hoàn tất việc chia đất.

Thánh Thi 149-150

Bài Hát Ca Ngợi Chiến Thắng

149 Ha-lê-lu-gia!
Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;
    Hãy hát ca ngợi Chúa giữa hội những người kính sợ Ngài.[a]
Nguyện Y-sơ-ra-ên vui vẻ trong Đấng Tạo Hóa mình;
    Nguyện con dân Si-ôn vui mừng nơi Vua mình.
Nguyện chúng nó nhảy múa để ca ngợi danh Chúa;
    Đánh trống cơm, khảy đàn hạc, hát ca ngợi Ngài.
CHÚA vui lòng nơi con dân Ngài;
    Ngài lấy sự cứu rỗi[b] trang sức cho những kẻ khiêm nhường.[c]
Nguyện những người kính sợ Chúa vui mừng trong vinh hạnh này;
    Họ sẽ ca hát vui vẻ ngay trên giường mình[d]
Nguyện lời tung hô Đức Chúa Trời nơi miệng[e] họ;
    Một thanh gươm hai lưỡi nơi tay họ;
Để trả thù các nước
    Và trừng phạt các dân;
Để trói các vua chúng nó bằng xiềng
    Và cột những kẻ quý tộc của họ bằng xích sắt;
Để thi hành án phạt đã ghi cho chúng.
    Đây là sự vinh quang cho tất cả những người kính sợ CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!

Ca Ngợi Chúa

150 Ha-lê-lu-gia!
Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời trong đền thánh Ngài;
    Hãy ca ngợi Chúa quyền năng trong nơi cao cả Ngài.[f]
Hãy ca ngợi Chúa vì những việc quyền năng Ngài;
    Hãy ca ngợi Chúa vì Ngài vô cùng vĩ đại.
Hãy dùng kèn để ca ngợi Chúa;
    Hãy dùng đàn hạc, đàn lia mà ca ngợi Ngài.
Hãy đánh trống cơm, nhảy múa để ca ngợi Chúa;
    Hãy khảy đàn, thổi sáo mà ca ngợi Ngài.
Hãy khua chiêng vang dội để ca ngợi Chúa;
    Hãy đánh phèn la lớn tiếng mà ca ngợi Ngài.
Hỡi mọi loài sinh vật[g] hãy ca ngợi CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!

Giê-rê-mi 9

Ôi! Ước gì đầu tôi là suối nước,
    Mắt tôi là nguồn lệ!
Tôi sẽ khóc suốt ngày đêm,
    Khóc những người bị tàn sát trong dân tôi, con gái tôi.

Đức Chúa Trời Đau Khổ Vì Dân Ngài

Ôi! Ước gì Ta có được
    Một chỗ trọ trong sa mạc,
Để Ta có thể bỏ dân Ta
    Và đi xa khỏi chúng!
Vì hết thảy chúng đều gian dâm,
    Một bè lũ xảo quyệt.
“Chúng uốn lưỡi
    Như người ta giương cung,
Chúng nắm quyền trong xứ
    Nhờ dối gạt chứ không vì trung tín.
Chúng làm hết gian ác này đến gian ác nọ,
    Còn Ta, chúng chẳng màng nghĩ đến.”
Đấy là lời CHÚA.
“Mỗi người hãy đề phòng bạn bè mình,
    Cũng đừng tin cậy anh em mình,
Vì anh em cũng gạt gẫm như Gia-cốp,
    Và bạn bè nào cũng đi rong nói xấu.
Bạn bè lừa bịp lẫn nhau,
    Chúng không nói điều chân thật.
Chúng luyện lưỡi nói điều dối gạt,
    Chúng phạm tội ác đến phát mệt.
Con đang sống giữa sự gian dối,
    Cũng vì gian dối mà chúng không chịu nhận biết Ta.”[a]
Đấy là lời CHÚA.

Vì thế CHÚA Vạn Quân phán như vầy:

“Này, Ta sẽ thử và luyện chúng nó,
    Vì Ta có làm gì khác được với dân Ta, con gái Ta?
Lưỡi chúng nó là mũi tên sắc lẻm,
    Nói ra gian dối trong miệng chúng.
Ai nấy chúc bình an cho bạn bè mình,
    Nhưng trong lòng thì lập mưu gài bẫy.
Lẽ nào Ta không đoán phạt chúng vì những điều ấy sao?
    Đối với một dân tộc như thế,
Lẽ nào Ta không thi hành
    Lẽ công chính sao?”
Đấy là lời CHÚA.
10 “Ta sẽ khóc lóc kêu than vì đồi núi,
    Vì đồng cỏ nơi sa mạc, ta sẽ ca lời ai oán:
‘Ôi! Khắp nơi tiêu điều, không người qua lại,
    Không tiếng bò rống;
Từ chim trời đến thú rừng,
    Thảy đều trốn biệt, mất luôn.’
11 Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành đống đổ nát,
    Thành hang chó rừng,
Và các thành của Giu-đa sẽ điêu tàn,
    Không người ở.”

Nguyên Do Đoán Phạt

12 Người nào có đủ sự khôn ngoan để hiểu điều này? Người nào nhận được lời từ chính miệng CHÚA để giải thích việc này? Tại sao đất nước tan hoang, điêu tàn như sa mạc, không người qua lại?

13 CHÚA phán:

“Vì chúng đã bỏ luật pháp Ta ban cho, không vâng theo tiếng Ta, và cũng không sống theo luật Ta, 14 nhưng lại sống theo lòng cứng cỏi mình, đi theo các thần Ba-anh như tổ phụ chúng đã dạy.” 15 Vì thế, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Này, Ta sẽ cho dân này ăn ngải cứu và uống nước độc. 16 Ta sẽ tản mát chúng giữa các dân mà chúng và tổ phụ chúng chưa hề biết. Và Ta sẽ sai gươm giáo đuổi theo chúng cho đến khi Ta tuyệt diệt chúng.”

Khóc Phát Tang

17 CHÚA Vạn Quân phán như vầy:

“Hãy chú ý! Hãy cho gọi các bà khóc thuê,
    Hãy mời các bà khéo kể lể đến!
18 Hãy để các bà
    Vội cất tiếng khóc than,
Cho mắt chúng tôi giọt lệ tuôn tràn,
    Cho con ngươi chúng tôi đầm đìa nước mắt!
19 Vì từ Si-ôn có tiếng khóc than vọng về:
    ‘Than ôi! Xong đời chúng tôi rồi!
    Chúng tôi tủi nhục vô cùng!
Chúng tôi phải xa lìa đất nước!
    Nhà cửa chúng tôi bị phá đổ tan hoang!’
20 Hỡi các bà, hãy lắng nghe lời của CHÚA!
    Hãy mở tai ra nhận lãnh lời từ miệng Ngài!
Hãy dạy cho con gái các bà bài khóc than kể lể,
    Hãy dạy cho nhau bài ca ai oán!
21 Thần Chết đã leo qua cửa sổ,
    Đã lẻn vào các đền đài chiến lũy chúng ta,
Để giết hại con trẻ ngoài đường phố,
    Thanh niên giữa quảng trường.”

22 CHÚA phán như vầy: “Hãy loan báo:

Thây người sẽ ngã xuống
    Như phân ngoài đồng ruộng,
Như cọng lúa rớt lại phía sau con gặt,
    Không người mót lượm!”

Vinh Hiển Thật

23 CHÚA phán như vầy:

“Người khôn ngoan đừng tự hào về sự khôn ngoan mình,
    Người mạnh sức đừng tự hào về sức mạnh mình,
    Người giàu có, đừng tự hào về sự giàu có mình.
24 Nhưng người nào tự hào, hãy tự hào về điều này:
    Người ấy hiểu biết và xưng nhận Ta,
Biết Ta là CHÚA, Ta ban bố tình yêu không dời đổi,
    Ta thi hành sự công bình và công chính trên đất,
    Vì Ta ưa thích những điều ấy.”
Đấy là lời CHÚA.

25 CHÚA phán: “Này, sẽ có ngày Ta thăm phạt tất cả những người chỉ cắt bao quy đầu trong thân xác mà thôi, 26 những người Ai-cập, Giu-đa, Ê-đôm, Am-môn và Mô-áp, và tất cả những người sống trong sa mạc, cạo tóc màng tang, vì tất cả những dân tộc đó, cũng như toàn thể nhà Y-sơ-ra-ên, đều chưa cắt bao quy đầu của lòng họ.”

Ma-thi-ơ 23

Chúa Khiển Trách Người Pha-ri-si Và Các Giáo Sư Kinh Luật(A)

23 Bấy giờ Đức Giê-su phán dạy đoàn dân đông và các môn đệ Ngài: “Các giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si ngồi trên ghế giáo huấn của Môi-se.[a] Vậy hãy làm và giữ tất cả những gì họ dạy nhưng đừng hành động như họ vì họ nói mà không làm. Họ buộc những gánh nặng quá sức trên vai người khác, nhưng chính mình thì không muốn động đến một ngón tay.

Họ làm mọi điều cốt để người ta thấy vì vậy mà họ làm thẻ bài[b] mình cho to và kết tua áo lễ cho dài. Họ thích ăn trên ngồi trước nơi bàn tiệc hay trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi giữa phố chợ và gọi mình là thầy.[c]

Nhưng các con đừng để người ta gọi mình là thầy vì các con chỉ có một Thầy còn tất cả đều là anh em. Và đừng gọi ai dưới đất là cha của các con. Vì các con chỉ có một Cha trên trời. 10 Cũng đừng chịu cho ai gọi mình là người lãnh đạo vì các con chỉ có một vị lãnh đạo là Chúa Cứu Thế. 11 Còn giữa vòng các con, ai là người lớn nhất sẽ làm đầy tớ cho các con. 12 Ai tự tôn cao sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì được tôn cao.

13 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông đóng cửa Nước Thiên Đàng trước mặt người ta. Chính các ông đã không vào mà ai muốn vào các ông cũng không cho.” 14 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si là kẻ đạo đức giả, Các ông ăn nuốt nhà cửa của đàn bà góa nhưng lại giả vờ cầu nguyện thật lâu cho người ta thấy, vì thế các ông sẽ bị hình phạt nặng nề hơn.[d]

15 “Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông vượt biển băng ngàn để chinh phục một người theo đạo, khi được rồi thì các ông làm cho kẻ ấy trở thành con của hỏa ngục[e] gấp đôi các ông.

16 Khốn cho các ông, những người dẫn đường mù lòa! Các ông dạy: ‘Nếu ai chỉ thánh điện mà thề, lời thề ấy không giá trị, nhưng ai chỉ vàng trong thánh điện mà thề, người ấy phải giữ lời thề.’ 17 Hỡi những kẻ dại dột và mù lòa! Vàng hay thánh điện làm cho vàng nên thánh, cái nào trọng hơn? 18 Các ông cũng dạy: ‘Nếu ai chỉ bàn thờ mà thề, lời thề ấy không giá trị, nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, người ấy phải giữ lời thề.’ 19 Hỡi những kẻ mù lòa! Lễ vật hay bàn thờ làm cho lễ vật nên thánh, cái nào trọng hơn? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ cả bàn thờ lẫn tất cả lễ vật trên bàn thờ mà thề. 21 Ai chỉ thánh điện mà thề là chỉ cả thánh điện lẫn Đấng ngự trong thánh điện mà thề. 22 Ai chỉ trời mà thề là lấy ngai Đức Chúa Trời và Đấng ngự trên ngai ấy mà thề.

23 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si, là những kẻ đạo đức giả! Vì các ông dâng một phần mười bạc hà, hồi hương và rau cần nhưng các ông bỏ những điều quan trọng hơn trong Kinh Luật là công bằng, lòng thương xót và trung tín. Những điều này các ông phải thực hành nhưng cũng không được bỏ các điều kia. 24 Hỡi những kẻ dẫn đường mù lòa, các ông lọc con ruồi mà lại nuốt con lạc đà.

25 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông rửa bên ngoài bát đĩa mà bên trong đầy sự tham lam và quá độ. 26 Hỡi người Pha-ri-si mù lòa! Trước hết hãy rửa bên trong chén đĩa để bên ngoài cũng được sạch luôn.

27 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Vì các ông giống như những mồ mả tô trắng, bề ngoài có vẻ đẹp đẽ nhưng bên trong thì đầy những hài cốt và mọi thứ dơ bẩn. 28 Các ông là thế, bề ngoài có vẻ công chính trước mặt người ta, nhưng bên trong thì toàn là đạo đức giả và vô đạo.

29 Khốn cho các ông, những giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si, là kẻ đạo đức giả! Vì các ông xây mồ cho những tiên tri và dựng bia cho những người công chính. 30 Các ông nói rằng: ‘Nếu sống vào thời tổ phụ thì chúng tôi đã không thông đồng làm đổ máu các tiên tri.’ 31 Như thế chính các ông tự chứng thực rằng mình là con cháu của những kẻ đã giết các tiên tri. 32 Vậy hãy làm cho ứng nghiệm[f] những điều tổ phụ các ông đã làm.

33 Hỡi loài rắn hổ mang, dòng dõi rắn độc kia! Làm thế nào các ông tránh khỏi hình phạt hỏa ngục được? 34 Vì thế, Ta sai các tiên tri, những người khôn ngoan và các giáo sư Kinh Luật đến cùng các ông. Có người sẽ bị các ông giết và đóng đinh, có người sẽ bị các ông đánh đập trong hội đường và lùng bắt từ thành này qua thành khác. 35 Vậy tất cả máu vô tội đã chảy ra trên đất đổ lên các ông, từ máu A-bên là người công chính đến máu Xa-cha-ri, con của Ba-ra-chi mà các ông đã giết khoảng giữa thánh điện và bàn thờ. 36 Thật, Ta bảo các ông, tất cả những điều này sẽ đến trên thế hệ này.”

Lời Than Về Giê-ru-sa-lem(B)

37 “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các tiên tri và ném đá các sứ giả Ta sai đến cùng ngươi. Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi như gà mẹ gom con lại dưới cánh mình nhưng các ngươi không chịu. 38 Rồi đây nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang. 39 Vì Ta bảo các ngươi, từ nay các ngươi sẽ không thấy Ta nữa cho đến khi các ngươi nói: ‘Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến.’ ”

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)