Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ru-tơ 1

Gia Ðình Ê-li-mê-léc Di Cư đến Mô-áp

Trong thời các thủ lãnh trị vì trong xứ có một nạn đói. Một người kia đã đưa vợ và hai con trai ông rời Bết-lê-hem, xứ Giu-đa, qua miền đồng bằng Mô-áp để sinh sống. Người chồng tên là Ê-li-mê-léc; người vợ tên là Na-ô-mi; hai con trai tên là Mác-lôn và Ki-li-ôn. Họ là con cháu của Ép-ra-tha, vốn là cư dân của Bết-lê-hem xứ Giu-đa. Họ dọn đến đồng bằng Mô-áp và định cư tại đó. Nhưng chẳng bao lâu Ê-li-mê-léc chồng của Na-ô-mi qua đời, để bà và hai con ở lại. Hai người con ấy lấy vợ là các phụ nữ Mô-áp. Một cô tên Ọt-pa và một cô tên Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm. Sau đó cả Mác-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để bà Na-ô-mi ở lại không chồng không con.

Na-ô-mi và Các Nàng Dâu Mô-áp

Bấy giờ Na-ô-mi đứng dậy với hai con dâu bà rời đồng bằng xứ Mô-áp để hồi hương, vì lúc ở đồng bằng Mô-áp bà có nghe rằng Chúa đã đoái thăm dân Ngài và ban cho họ lương thực. Vậy bà cùng hai con dâu bà chuẩn bị rời nơi họ đang sống để lên đường trở về xứ Giu-đa. Nhưng Na-ô-mi bảo hai con dâu bà, “Các con hãy trở về nhà mẹ các con đi. Cầu xin Chúa đối xử tốt với các con, như các con đã đối xử tốt với những người đã qua đời và với mẹ. Cầu xin Chúa ban phước cho các con, để người nào cũng được an vui hạnh phúc trong nhà chồng mới của mình.” Nói xong bà ôm hôn họ, và họ bật khóc nức nở.

10 Họ nói với bà, “Không, chúng con sẽ đi với mẹ về quê hương của mẹ.”

11 Nhưng Na-ô-mi đáp, “Hãy trở về, các con gái của mẹ. Tại sao các con muốn đi theo mẹ? Làm sao mẹ có thể sinh các con trai được nữa để chúng làm chồng các con? 12 Hãy về đi, các con gái của mẹ. Hãy đi đi, vì mẹ đã quá già để tái giá, cho dù mẹ nghĩ rằng mẹ vẫn còn hy vọng tái giá. Giả như tối nay mẹ lấy chồng và có thai rồi sinh các con trai, 13 liệu các con có thể đợi cho đến khi chúng khôn lớn chăng? Các con há có thể không lấy chồng khác sao? Không đâu, các con gái của mẹ ơi, nỗi sầu khổ của mẹ còn đắng cay hơn của các con rất nhiều, bởi vì tay Chúa đã đưa ra chống lại mẹ.”

14 Bấy giờ họ lại khóc lớn tiếng, rồi Ọt-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng của nàng, nhưng Ru-tơ cứ bám theo bà. 15 Na-ô-mi nói với nàng, “Này, em dâu của con đã trở về với dân của nó và với các thần của nó rồi; con cũng hãy trở về như em dâu của con đi.”

16 Nhưng Ru-tơ đáp, “Xin mẹ đừng ép con rời xa mẹ hay bắt con phải trở về mà không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con sẽ theo đó; mẹ ở nơi nào, con sẽ ở nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con. Ðức Chúa Trời của mẹ là Ðức Chúa Trời của con. 17 Mẹ chết nơi nào, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Ví bằng có điều chi ngoài cái chết phân cách con với mẹ, nguyện Chúa giáng họa trên con.”

18 Khi Na-ô-mi thấy Ru-tơ đã cương quyết theo bà, bà không nói thêm với nàng điều gì nữa.

19 Vậy hai người lên đường đi về Bết-lê-hem. Khi họ vừa đến Bết-lê-hem cả thành đều xôn xao vì hai người. Các bà hỏi nhau, “Có phải đây là Na-ô-mi chăng?”

20 Na-ô-mi đáp, “Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi[a] nữa, nhưng hãy gọi tôi là Ma-ra,[b] vì Ðấng Toàn Năng đã đãi tôi cách đắng cay. 21 Tôi đã ra đi cách đầy dẫy, nhưng nay Chúa đem tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi, trong khi Chúa đã đãi tôi cách khắc nghiệt, và Ðấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?”

22 Như vậy Na-ô-mi và Ru-tơ cô dâu người Mô-áp của bà đã từ đồng bằng Mô-áp trở về. Họ đến Bết-lê-hem nhằm vào đầu mùa gặt.

Công Vụ Các Sứ đồ 26

Phao-lô Giảng Cho Vua Ạc-ríp-pa

Lời Mở Ðầu

26 Vua Ạc-ríp-pa nói với Phao-lô, “Ngươi được phép biện hộ cho mình.”

Phao-lô đưa tay ra dấu và tự biện hộ cho ông như sau:

“Tâu Vua Ạc-ríp-pa:

Tôi lấy làm vinh dự được biện hộ cho mình hôm nay trước mặt vua về những điều người Do-thái đã tố cáo tôi, bởi vì vua đã quá quen thuộc với những tập tục và những vấn đề tranh chấp của người Do-thái. Vì vậy, kính xin vua nhẫn nại lắng nghe tôi trình bày:

Tất cả người Do-thái đều biết rõ nếp sống của tôi từ thuở nhỏ cho đến bây giờ ra sao; tôi đã lớn lên giữa dân tôi và giữa Giê-ru-sa-lem từ ban đầu cho đến nay như thế nào. Họ đã biết rõ điều đó từ lâu. Nếu họ muốn chứng cớ, họ có thể xác nhận rằng tôi sống cuộc đời của một người Pha-ri-si, tức theo một môn phái nghiêm khắc nhất trong tôn giáo của chúng tôi. Bây giờ tôi đứng đây để bị xét xử là vì hy vọng về lời hứa Ðức Chúa Trời đã ban cho tổ phụ chúng tôi, một lời hứa mà mười hai chi tộc chúng tôi ngày đêm hết lòng thờ phượng và hy vọng được hưởng. Tâu vua, chính vì hy vọng đó mà tôi bị người Do-thái tố cáo. Tại sao quý vị không thể tin rằng Ðức Chúa Trời có quyền làm cho người chết sống lại?

Thật vậy, chính tôi đã tin rằng tôi phải làm mọi cách để chống lại danh Ðức Chúa Jesus ở Na-xa-rét. 10 Và đó là những điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Với quyền hành do các trưởng tế ban cho, không những tôi đã bắt nhiều thánh đồ nhốt vào tù, mà còn bỏ phiếu tán thành việc xử tử họ nữa. 11 Tôi thường đi khắp các hội đường để trừng phạt họ, cưỡng bách họ nói những lời phạm thượng. Tôi còn tức giận họ đến độ đến tận các thành ở ngoại quốc để bắt bớ họ.

Thuật Lại Kinh Nghiệm Gặp Chúa

12 Vì lẽ đó nên tôi đi đến Thành Ða-mách với sự ủy quyền và ủy nhiệm của các trưởng tế. 13 Nhưng tâu vua, dọc đường, vào giữa trưa, tôi thấy một luồng ánh sáng, chói lọi hơn cả mặt trời, từ trời chiếu xuống chói lòa quanh tôi và các bạn đồng hành với tôi. 14 Sau khi tất cả chúng tôi đã té xuống đất, tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng, ‘Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta? Ngươi đá vào mũi nhọn thì đau đớn cho ngươi thay.’ 15 Tôi hỏi, ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’ Chúa đáp, ‘Ta là Jesus mà ngươi đang bắt bớ. 16 Hãy trỗi dậy và đứng lên. Ta hiện ra với ngươi vì mục đích này: để lập ngươi làm một đầy tớ và một nhân chứng cho Ta không những về những điều ngươi đã thấy, mà còn về những điều Ta sẽ hiện ra tỏ cho ngươi biết. 17 Ta sẽ giải cứu ngươi khỏi đồng bào ngươi và khỏi các dân ngoại là những người Ta sẽ sai ngươi đến 18 để ngươi mở mắt họ, hầu họ xây bỏ tối tăm mà quay qua ánh sáng, lìa bỏ quyền lực của Sa-tan để trở về với Ðức Chúa Trời, và để họ có thể nhận sự tha tội và hưởng gia tài với những người được thánh hóa nhờ tin Ta.’

Thuật Lại Những Việc Ðã Làm

19 Tâu Vua Ạc-ríp-pa, kể từ đó tôi không dám bất tuân khải tượng từ trời, 20 nhưng tôi đã rao giảng trước hết cho những người ở Ða-mách, rồi ở Giê-ru-sa-lem, khắp nơi trong miền Giu-đê, và cho các dân ngoại rằng, họ phải ăn năn, quay về với Ðức Chúa Trời, và hành động xứng hợp với sự ăn năn ấy. 21 Vì lý do đó người Do-thái đã bắt tôi trong đền thờ và định giết tôi. 22 Nhưng nhờ Ðức Chúa Trời phù hộ, nên ngày nay tôi còn được đứng đây, làm chứng cho những người thấp kém lẫn những bậc chức quyền, không nói gì khác hơn là những điều Các Tiên Tri và Môi-se đã nói phải xảy ra, 23 đó là Ðấng Christ phải chịu đau khổ và là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, để Ngài công bố ánh sáng cho dân tộc chúng ta và cho các dân ngoại.”

24 Ðang khi Phao-lô tự biện hộ cho ông như thế, Phê-tu nói lớn, “Hỡi Phao-lô, ngươi đã loạn trí rồi. Ngươi học nhiều quá nên đã loạn trí rồi.”

25 Nhưng Phao-lô đáp, “Tâu Quan Phê-tu, tôi không loạn trí đâu, nhưng tôi đang nói những lời chân thật và hữu lý. 26 Vì tôi tin rằng đức vua biết rõ những điều này, nên tôi mới dạn dĩ tâu với vua. Bởi tôi tin chắc rằng không điều nào trong các điều này mà vua không biết, vì việc này không phải đã xảy ra ở một xó xỉnh nào. 27 Tâu Vua Ạc-ríp-pa, vua tin lời Các Tiên Tri phải không? Tôi biết là vua tin.”

28 Ạc-ríp-pa nói với Phao-lô, “Chút xíu nữa ngươi đã thuyết phục được ta trở thành một người của Ðấng Christ.”[a]

29 Phao-lô đáp, “Tôi cầu xin Ðức Chúa Trời rằng chẳng sớm thì muộn, không phải chỉ một mình vua mà tất cả những người nghe tôi hôm nay sẽ trở thành như tôi, ngoại trừ các xiềng xích này thôi.”

30 Ðoạn vua, quan tổng trấn, bà Bẹc-nít, và tất cả những người ngồi chung với họ đứng dậy. 31 Khi họ bước ra, họ nói với nhau, “Người này không làm gì đáng tội chết hay ở tù cả.”

32 Ạc-ríp-pa nói với Phê-tu, “Người này có thể được trả tự do nếu ông ấy không kháng cáo lên hoàng đế.”

Giê-rê-mi 36

Sách Ðược Ðọc trong Ðền Thờ

36 Trong năm thứ tư của triều đại Giê-hô-gia-kim con của Giô-si-a vua Giu-đa, có lời này từ Chúa đến với Giê-rê-mi,

“Hãy lấy một cuộn sách, rồi viết vào đó mọi lời Ta đã phán với ngươi nghịch lại I-sơ-ra-ên, Giu-đa, và mọi nước, từ ngày Ta phán bảo ngươi, tức từ thời Giô-si-a cho đến ngày nay. Biết đâu khi toàn thể nhà Giu-đa nghe về mọi tai họa Ta định giáng trên chúng, ai nấy sẽ từ bỏ các đường lối tội lỗi của mình, và Ta sẽ tha thứ các tội lỗi của chúng và các vi phạm của chúng.”

Vậy Giê-rê-mi gọi Ba-rúc con của Nê-ri-a đến, rồi theo lời Giê-rê-mi đọc cho, Ba-rúc viết vào một cuộn sách mọi lời của Chúa đã phán với ông. Sau đó Giê-rê-mi bảo Ba-rúc, “Tôi bị ngăn cản, không thể vào nhà Chúa được. Vậy đến ngày lễ kiêng ăn, xin anh đi vào nhà Chúa, đọc lớn tiếng cho mọi người nghe rõ những lời của Chúa trong cuộn sách tôi đã đọc cho anh chép. Anh cũng hãy đọc những lời ấy vào tai mọi người Giu-đa, những người sẽ từ các thành của họ đi lên dự lễ nữa. Biết đâu họ sẽ dâng lời van nài của mình lên trước thánh nhan Chúa, và ai nấy sẽ từ bỏ đường lối tội lỗi của mình, vì cơn giận và cơn thịnh nộ mà Chúa đã công bố để nghịch lại dân này thật lớn thay!”

Vậy Ba-rúc con của Nê-ri-a làm theo mọi điều Tiên Tri Giê-rê-mi đã truyền cho ông về việc vào trong nhà Chúa và đọc cho mọi người nghe những lời của Chúa trong cuộn sách ấy.

Vào tháng chín, năm thứ năm của triều đại Giê-hô-gia-kim con của Giô-si-a vua Giu-đa, người ta rao một cuộc kiêng ăn trước mặt Chúa cho mọi người ở Giê-ru-sa-lem và mọi người từ các thành ở Giu-đa đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ. 10 Bấy giờ Ba-rúc đọc cho mọi người nghe những lời của Giê-rê-mi đã đọc được ghi chép trong cuộn sách, ngay tại nhà Chúa, ở phòng lớn nơi làm việc của Ghê-ma-ri-a con của Thư Ký Sa-phan, phòng ấy ở trong sân thượng, kế bên lối vào Cổng Mới của nhà Chúa.

Sách Ðược Ðọc trong Cung Vua

11 Khi Mi-cai-a con của Ghê-ma-ri-a con của Sa-phan đã nghe những lời của Chúa trong cuộn sách, 12 ông đi xuống cung vua, vào trong phòng lớn nơi làm việc của quan thư ký; lúc đó tất cả các triều thần đang ngồi họp, gồm Ê-li-sa-ma quan thư ký, Ðê-la-gia con của Sê-ma-gia, Ên-na-than con của Ách-bơ, Ghê-ma-ri-a con của Sa-phan, Xê-đê-ki-a con của Ha-na-ni-a, và tất cả các triều thần. 13 Mi-cai-a thuật lại cho họ mọi lời ông đã nghe khi Ba-rúc đọc cuộn sách cho dân nghe. 14 Bấy giờ tất cả các quan sai Giê-hu-đi con của Nê-tha-ni-a cháu của Sê-lê-mi-a chắt của Cư-si đến nói với Ba-rúc, “Hãy lấy cuộn sách ông đã đọc cho dân nghe và mang nó đến đây.” Vậy Ba-rúc con của Nê-ri-a ôm cuộn sách trong tay và đến với họ. 15 Họ bảo ông, “Xin ông ngồi xuống đây và đọc cho chúng tôi nghe.” Ba-rúc bèn đọc cho họ nghe. 16 Khi họ đã nghe xong mọi lời ấy, họ nhìn nhau và lấy làm lo sợ, rồi họ nói với Ba-rúc, “Chắc chắn chúng tôi phải báo mọi lời này cho vua hay.” 17 Kế đó họ hỏi Ba-rúc, “Bây giờ xin ông nói cho chúng tôi biết, làm thể nào ông có những lời này để ghi vào sách? Có phải ông ấy đã đọc cho ông chép không?”

18 Ba-rúc trả lời họ, “Chính miệng ông ấy đã đọc mọi lời đó cho tôi, còn tôi thì dùng viết mực chép chúng vào cuộn sách này.”

19 Bấy giờ các quan nói với Ba-rúc, “Ông và Giê-rê-mi hãy đi mau và trốn kỹ, đừng để ai biết các ông trốn ở đâu.”

Giê-hô-gia-kim Ðốt Sách

20 Sau khi cất cuộn sách trong phòng lớn, nơi làm việc của Ê-li-sa-ma quan thư ký, họ cùng nhau vào triều đình để tâu với vua mọi lời họ đã nghe. 21 Vua bèn sai Giê-hu-đi đi lấy cuộn sách. Ông ấy đến phòng lớn, nơi làm việc của Ê-li-sa-ma quan thư ký, lấy nó đem đến. Giê-hu-đi đọc sách ấy cho vua và tất cả các quan đứng hầu bên cạnh nghe. 22 Vả lúc ấy vua đang ngồi sưởi ấm trong cung mùa đông, vì bấy giờ là tháng chín. Trước mặt vua có một lò sưởi, và lửa đang cháy bập bùng. 23 Hễ mỗi khi Giê-hu-đi đọc xong được ba hay bốn đoạn, vua lấy con dao gọt bút của thư ký mà cắt bỏ các đoạn ấy và ném chúng vào lửa đang cháy. Vua cứ làm thế cho đến khi toàn thể cuộn sách bị thiêu rụi trong lửa. 24 Chính vua và các triều thần của ông đã nghe các lời ấy, nhưng không ai lấy làm lo sợ và không ai xé áo mình. 25 Mặc dù Ên-na-than, Ðê-la-gia, và Ghê-ma-ri-a cố can gián vua đừng đốt sách, nhưng vua chẳng nghe. 26 Ðã thế vua còn ra lệnh cho Giê-ra-mê-ên con của vua, Sê-ra-gia con của A-ri-ên, và Sê-lê-mi-a con của Áp-đê-ên đi bắt Thư Ký Ba-rúc và Tiên Tri Giê-rê-mi, nhưng Chúa đã giấu họ.

Giê-rê-mi Ðọc Ðể Ba-rúc Chép Lại Sách Khác

27 Lúc ấy sau khi vua đã đốt cuộn sách chứa những lời Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc ghi chép, có lời của Chúa đến với Giê-rê-mi: 28 “Hãy lấy một cuộn sách khác và viết vào đó mọi lời đã chép trong cuộn sách trước kia, tức cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa đã đốt. 29 Còn về Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, ngươi hãy nói, ‘Chúa phán thế này, “Vì ngươi đã đốt cuộn sách ấy mà bảo rằng, ‘Tại sao ông dám viết vào sách đó rằng vua Ba-by-lôn chắc chắn sẽ đến tàn phá xứ này và tiêu diệt cả người ta lẫn thú vật?’”’ 30 Vì thế Chúa phán thế này về Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, ‘Nó sẽ không có con ngồi trên ngai của Ða-vít để kế vị. Thây nó sẽ bị vứt ra ngoài để bị phơi nắng ban ngày và bị giá lạnh ban đêm. 31 Ta sẽ phạt nó, các con cháu nó, và bầy tôi của nó, vì tội của chúng. Ta sẽ giáng trên chúng, tức trên dân Giê-ru-sa-lem và trên dân Giu-đa, mọi tai họa Ta đã cảnh cáo, nhưng chúng đã chẳng nghe.’”

32 Giê-rê-mi lấy một cuộn sách khác và trao nó cho Thư Ký Ba-rúc con của Nê-ri-a. Giê-rê-mi đọc cho ông ấy viết vào đó mọi lời đã ghi trong cuộn sách bị Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa đốt trong lửa. Ngoài ra còn có nhiều lời tương tự được thêm vào những lời đó.

Giê-rê-mi 45

Lời An Ủi Ba-rúc

45 Lời của Tiên Tri Giê-rê-mi nói với Ba-rúc con của Nê-ri-a, khi Giê-rê-mi đọc cho ông viết những lời trong sách này vào một cuộn sách, trong năm thứ tư của triều đại Giê-hô-gia-kim con của Giô-si-a vua Giu-đa, “Hỡi Ba-rúc, Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này về anh: Anh nói, ‘Khốn thay cho tôi! Chúa đã chất thêm nỗi sầu não vào nỗi đau đớn của tôi. Tôi kiệt lực vì than thở, và tôi không được nghỉ ngơi chút nào.’ Vậy ngươi hãy nói với nó: Chúa phán thế này, ‘Này, Ta sẽ phá cho đổ xuống những gì Ta đã xây dựng. Ta sẽ nhổ bứt gốc lên những gì Ta đã trồng – đó là toàn thể đất nước này. Ngươi còn cứ mải mê tìm cho mình những điều lớn lao to tát làm gì? Ðừng tìm kiếm chúng làm chi vô ích, vì này, Ta sẽ đem tai họa giáng trên mọi loài xác thịt; nhưng ngươi,’ Chúa phán, ‘Ta sẽ cho ngươi được bảo toàn tính mạng ở bất cứ nơi nào ngươi đến.’”

Thánh Thi 9

Cảm Tạ Chúa về Sự Phán Xét Công Bình

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Theo điệu Mút La-bên

Con sẽ hết lòng dâng lời cảm tạ Chúa;
Con sẽ kể ra mọi việc kỳ diệu của Ngài.
Con sẽ hân hoan và hớn hở trong Ngài;
Con sẽ ca tụng danh Ngài, ôi Ðấng Tối Cao.[a]

Khi những kẻ thù của con quay trở lại,
Chúng sẽ ngã xuống và bị diệt vong trước mặt Ngài,
Vì Ngài binh vực quyền lợi của con và duyên cớ của con;
Ngài ngự trên ngai và phán xét công minh.

Ngài quở trách các dân;
Ngài hủy diệt những kẻ ác;
Ngài xóa tên chúng nó đời đời bất tận.
Kẻ thù của con đã bị kết liễu trong hoang tàn vĩnh viễn;
Những thành trì mà Ngài đã diệt trừ,
Dù kỷ niệm về chúng cũng chẳng còn;
Nhưng Chúa sẽ còn lại đời đời;
Ngài đã lập ngôi Ngài để xét đoán.
Ngài sẽ phán xét thế gian theo lẽ công chính;
Ngài sẽ xét xử muôn dân theo lẽ công bình.

Chúa là nơi nương náu cho những người bị hà hiếp;
Ngài là chỗ ẩn núp trong lúc bị nguy nan.
10 Phàm ai biết đến danh Ngài sẽ để lòng tin cậy Ngài,
Chúa ôi, Ngài không bỏ rơi những ai tìm kiếm Ngài.

11 Hãy ca tụng Chúa, Ðấng ngự tại Si-ôn!
Hãy rao ra những công việc Ngài giữa các dân.
12 Vì Ðấng báo thù kẻ gây đổ máu đã nhớ lại họ,
Ngài không quên tiếng kêu cầu của những người khốn khổ.

13 Xin thương xót con, Chúa ôi!
Xin đoái xem những khổ đau con chịu vì những kẻ ghét con;
Xin nhấc đưa con ra khỏi cổng của tử thần,
14 Ðể con có thể thuật lại mọi sự hầu ca ngợi Ngài nơi các cổng của Ái Nữ Si-ôn,[b]
Hầu bày tỏ niềm vui vì được hưởng ơn giải cứu của Ngài.

15 Các dân đã lún sâu vào hố chúng đào;
Chân chúng đã vướng vào bẫy chúng giăng.
16 Chúa đã bày tỏ Ngài ra khi Ngài thi hành sự đoán phạt;
Kẻ ác đã bị mắc vào bẫy do chính tay nó gài. (Hãy suy gẫm – Sê-la)
17 Kẻ ác sẽ đi vào âm phủ;
Mọi dân quên Ðức Chúa Trời cũng vậy.

18 Người thiếu thốn sẽ chẳng bị bỏ quên luôn luôn,
Người nghèo khó sẽ chẳng bị thất vọng mãi mãi.

19 Chúa ôi, xin trỗi dậy, xin đừng để loài người thắng hơn.
Nguyện các dân bị xét xử trước mặt Ngài.
20 Xin làm cho họ sợ hãi, Chúa ôi,
Xin để các dân biết rằng họ chẳng qua chỉ là loài người. (Sê-la)

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang