Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Historical

Read the books of the Bible as they were written historically, according to the estimated date of their writing.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
2 Sa-mu-ên 22-24

Vua Đa-vít Ca Ngợi CHÚA

22 Vua Đa-vít dâng lên CHÚA những lời của bài ca này, sau khi CHÚA giải cứu vua khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay vua Sau-lơ. Vua ca:

“Lạy CHÚA là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải cứu con!
    Lạy Đức Chúa Trời là núi đá cho con nương náu,
    Ngài là thuẫn khiên che chở con,
Là Đấng quyền năng cứu chuộc con,[a] Là tháp cao kiên cố, là nơi con trú ẩn,
    Là Đấng giải cứu, Ngài cứu con thoát khỏi kẻ bạo hành!
Lạy CHÚA, con ca ngợi Ngài! Khi con kêu cầu CHÚA,
    Ngài giải thoát con khỏi kẻ thù nghịch con.
Sóng tử thần vây lượn chung quanh,
    Thác diệt vong cuộn xoay chực sẵn,
Dây Âm phủ vương vấn bao quanh,
    Bẫy tử thần đón chờ con sập.
Phút gian nguy con kêu cầu CHÚA,
    Kêu xin Ngài là Đức Chúa Trời của con,
Từ đền thánh Ngài nghe tiếng con,
    Ngài lắng tai nghe tiếng con kêu cứu.
Bấy giờ, đất chuyển mình rúng động,
    Nền móng các tầng trời rung chuyển lung lay,
    Vì Chúa nổi giận.
Khói bốc lên từ mũi Ngài,
    Miệng Ngài phát ra ngọn lửa thiêu nuốt
    Và than hồng cháy rực.
10 Chúa xé các tầng trời, ngự xuống,
    Chân đạp lớp mây dày đen nghịt.
11 Chúa cưỡi thần hộ giá, vụt bay,
    Và xuất hiện trên cánh gió.
12 Trướng rủ quanh Ngài là bóng tối,
    Khối mây dày đọng nước.
13 Than hồng cháy rực
    Chói sáng trước mặt Ngài.
14 CHÚA cho sấm nổ rền trời,
    Đấng Tối Cao lên tiếng vang dội.
15 Ngài bắn tên, khiến quân thù tán loạn,
    Phát chớp nhoáng, chúng bỏ chạy tan hàng.
16 CHÚA quở một tiếng,
    Đáy biển xuất hiện;
Ngài nổi giận,
    Nền móng trái đất phơi trần.
17 Từ trời cao Chúa đưa tay nắm lấy con,
    Vớt con lên khỏi nước sâu thăm thẳm.
18 Ngài cứu con thoát khỏi kẻ thù cường bạo,
    Khỏi những kẻ ghét con, và mạnh thế hơn con.
19 Chúng tấn công con ngày con lâm nạn,
    Nhưng CHÚA phù hộ con.
20 Ngài đưa con ra khỏi cảnh nguy nan,
    Ngài giải cứu con vì Ngài thương con.
21 CHÚA ban thưởng con vì con vâng lời Ngài,
    Ngài ban phước cho con vì tay con trong sạch.
22 Con giữ theo các đường lối CHÚA dạy,
    Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời con tôn thờ.
23 Con vâng theo mọi mạng lệnh Ngài truyền,
    Không lìa bỏ một điều răn nào.
24 Chúa biết con hoàn toàn vâng theo Ngài,
    Và giữ mình, không làm điều ác.
25 Vậy, CHÚA ban phước cho con vì con vâng lời Ngài,
    Vì Chúa biết con trong sạch.
26 Chúa bền lòng thương xót người nào trung thành vâng lời Ngài,
    Chúa đối xử trọn vẹn với người hoàn toàn vâng theo Ngài.
27 Chúa đối xử ngay thẳng với người chân thật thanh liêm,
    Nhưng Ngài trừng phạt kẻ gian xảo xứng đáng với việc làm của chúng.
28 Chúa giải cứu người khiêm nhu hạ mình,
    Nhưng mắt Ngài thấy kẻ kiêu ngạo, Ngài hạ họ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài là ngọn đèn của con,
    CHÚA soi chiếu vào đời con, xua tan bóng tối tử vong và tội lỗi.
30 Nhờ sức Ngài, con tấn công quân thù,
    Cậy ơn Đức Chúa Trời, con phóng qua tường thành.
31 Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài trọn vẹn;
    Lời CHÚA hứa đáng tin cậy hoàn toàn.
Ngài là thuẫn khiên che chở
    Mọi người ẩn náu bên Ngài.
32 Ngoài CHÚA ra, ai là Đức Chúa Trời?
    Ai là núi đá an toàn, ngoài Đức Chúa Trời chúng con tôn thờ?
33 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là nơi trú ẩn vững chắc của con,
    Ngài giữ cho con đi lại an toàn.
34 Ngài cho chân con nhanh nhẹn như chân nai,
    Ngài đặt con đứng vững vàng trên đỉnh núi.
35 Chúa luyện tay con thạo việc chinh chiến,
    Cánh tay con giương nổi cung đồng.
36 Chúa che chở và giải cứu con,
    Chúa hạ mình xuống để nâng con lên.
37 Chúa mở rộng đường cho con bước đi,
    Nên con không vấp ngã.
38 Con đuổi theo, hủy diệt quân thù,
    Chỉ trở về sau khi tận diệt chúng.
39 Con tận diệt chúng, con đập tan chúng,
    Chúng không đứng dậy nổi, chúng ngã gục dưới chân con.
40 Chúa ban cho con sức mạnh để chiến đấu,
    Chúa khiến đối phương quỳ mọp dưới chân con.
41 Chúa bắt kẻ thù quay lưng chạy trốn,
    Con tiêu diệt những kẻ oán thù con.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai cứu giúp,
    Chúng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài không đáp lời.
43 Con nghiền tan chúng như bụi đất,
    Con giẫm nát chúng, chà đạp chúng như bùn ngoài đường.
44 Dân con phản loạn, Chúa cứu con thoát khỏi;
    Ngài giữ con làm đầu các nước,
Dân xa lạ phải thần phục con.
45     Người nước ngoài cúi mọp trước mặt con,
    Nghe đến con, tức khắc tuân theo.
46 Người nước ngoài tiêu tan khí phách,
    Từ trong đồn lũy, run rẩy bước ra.
47 Lạy CHÚA Hằng Sống! Con ca ngợi Ngài là núi đá cho con nương náu!
    Con tôn vinh Đức Chúa Trời, Ngài là núi đá che chở con, Ngài cứu con thoát khỏi hiểm nguy!
48 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng báo thù cho con,
    Ngài bắt các dân thần phục con,
49     Ngài giải cứu con khỏi kẻ thù,
Cho con chiến thắng đối phương,
    Cứu con thoát khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy CHÚA, con xin tôn vinh Ngài giữa muôn dân,
    Và ca hát ngợi khen danh Ngài.
51 Chúa ban chiến thắng vẻ vang cho vua Ngài chọn,
    Chúa yêu thương người được Chúa xức dầu với tình yêu bền bỉ, không dời đổi.
    Chúa yêu thương Đa-vít và dòng dõi người đến muôn đời.”

Những Lời Cuối Cùng Của Vua Đa-vít

23 Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít:

Lời của Đa-vít, con ông Y-sai,
    Lời của người được nhấc lên cao,[b]
Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong;
    Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng:
Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy,
    Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta.
Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy,
    Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta:
“Người nào cai trị nhân loại cách công minh,
    Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời,
Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọc
    Vào một buổi sáng trời quang mây tạnh,
Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa,
    Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.”
Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy!
    Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời,
    Có quy định đầy đủ, không đổi dời.
Mọi thành công, mọi điều ta ao ước,
    Ngài sẽ cho nẩy mầm.
Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc.
    Không ai dám nắm chúng trong tay.
Người nào đụng đến chúng,
    Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo.
    Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ.

Ba Dũng Sĩ Của Vua Đa-vít

Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết,[c] người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ.[d] Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc.

Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. 10 Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

11 Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. 12 Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

Thành Tích Của Ba Dũng Sĩ Trong Nhóm Ba Mươi

13 Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. 14 Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. 15 Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. 17 Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ.

A-bi-sai Và Bê-na-gia

18 Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ.[e] Ông vung gươm, chém giết 300 người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 19 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi[f] và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba.

20 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. 21 Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. 22 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 23 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh.

Nhóm Ba Mươi

24 Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; 25 ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; 26 ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; 27 ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; 28 ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; 29 ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; 30 ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; 31 ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; 32 ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; 33 ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; 34 ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; 35 ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; 36 ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; 37 ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; 38 ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; 39 ông U-ri người Hết.

Tổng cộng là 37 dũng sĩ.

Điều Tra Dân Số

24 CHÚA lại nổi giận với dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục vua Đa-vít gây hại cho họ. Ngài phán với vua: “Hãy đi đếm dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa.” Vua bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: “Hãy đi điều tra dân số khắp các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan phía bắc đến Bê-e-sê-ba ở phía nam, cho ta biết tổng số dân trong tuổi lính tráng là bao nhiêu.” Ông Giô-áp tâu với vua: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ban cho bệ hạ một đội quân đông gấp trăm lần đội quân hiện tại. Cầu xin Ngài cho chính mắt vua chúa tôi thấy được điều đó. Nhưng tại sao vua chúa tôi lại muốn làm việc này?” Tuy nhiên lệnh vua truyền không thay đổi, nên ông Giô-áp và các sĩ quan trong quân lực buộc lòng phải cáo lui và ra đi điều tra dân số khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên.

Họ đi qua sông Giô-đanh và khởi sự đếm dân số từ thành A-rô-e, và một thành ở giữa thung lũng[g] rồi đi lên hướng địa phận Gát[h] đến thành Gia-xe. Họ đến địa phận Ga-la-át, đi xuyên qua lãnh thổ người Hết, đến thành Ca-đết,[i] đến Đan Gia-an rồi vòng về thành Si-đôn. Họ đến Ty-rơ, một thành lũy kiên cố, và đi khắp các thành của người Hê-vít và người Ca-na-an. Cuối cùng, họ đến Bê-e-sê-ba, thuộc vùng sa mạc miền nam địa phận Giu-đa. Họ trở về thành Giê-ru-sa-lem sau khi đi khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày. Ông Giô-áp trình lên vua kết quả cuộc điều tra dân số: Y-sơ-ra-ên có 800,000 binh sĩ biết tuốt gươm, và Giu-đa có 500,000 ngàn.

Bệnh Dịch

10 Sau khi điều tra dân số xong, vua Đa-vít bị lương tâm cắn rứt và thưa với CHÚA: “Lạy Chúa, con đã làm một việc rất ngu dại và phạm tội nặng. Giờ đây, con xin CHÚA tha tội cho đầy tớ của Ngài.” 11 Sáng hôm sau, trước khi vua Đa-vít dậy, CHÚA bảo tiên tri Gát, là tiên tri phục vụ tại triều vua Đa-vít: 12 “Con hãy đi nói với Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Ta có ba cách để sửa trị ngươi. Ta cho phép ngươi chọn một trong ba, rồi Ta sẽ theo đó mà sửa trị ngươi.’ ”

13 Tiên tri Gát đến thuật lại cho vua Đa-vít nghe. Tiên tri hỏi vua: “Bệ hạ chọn điều nào: bảy năm đói kém trên khắp lãnh thổ của bệ hạ, hoặc ba tháng bệ hạ phải chạy trốn trong khi quân thù đuổi theo bệ hạ, hoặc ba ngày bệnh dịch lan tràn khắp đất nước? Bây giờ, xin bệ hạ cân nhắc thận trọng, xem tôi phải thưa lại Đấng sai bảo tôi như thế nào.” 14 Vua Đa-vít nói với tiên tri Gát: “Ta bối rối vô cùng, ta khó chọn quá. Thà chúng ta rơi vào tay CHÚA còn hơn, vì Ngài rộng lòng thương xót! Xin đừng cho ta rơi vào tay loài người!”

15 Vậy CHÚA giáng bệnh dịch xuống dân Y-sơ-ra-ên từ sáng hôm đó cho đến giờ ấn định. Từ Đan đến Bê-e-sê-ba, có 70,000 người chết. 16 Thiên sứ đưa tay ra hướng về thành Giê-ru-sa-lem để hủy diệt thành, nhưng CHÚA không muốn gây thêm khổ đau nên bảo thiên sứ đang hủy diệt dân chúng: “Đủ rồi! Rút tay về đi!” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA ở bên sân đạp lúa của ông A-rau-na, người Giê-bu. 17 Khi vua Đa-vít thấy thiên sứ giết hại dân chúng, vua thưa với CHÚA: “Chính con là người phạm tội, chính con là người lỗi lầm! Còn những con chiên này, chúng có làm gì đâu? Xin cho tay CHÚA giáng xuống con và dòng họ nhà cha con!”

Vua Đa-vít Dựng Bàn Thờ

18 Ngay hôm ấy, tiên tri Gát đến nói với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ đi đến sân đạp lúa của ông A-rau-na người Giê-bu và dựng tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA.” 19 Vua Đa-vít đi ngay theo lời chỉ dẫn của tiên tri Gát, y như CHÚA đã truyền dạy ông. 20 Ông A-rau-na nhìn ra, thấy vua và triều thần tiến về phía mình, ông liền đi ra, cúi sấp mặt xuống đất, vái lạy vua.

21 Ông A-rau-na thưa: “Tâu vua chúa tôi đến gặp hạ thần có điều chi dạy bảo?” Vua Đa-vít bảo: “Ta đến mua sân đạp lúa của ngươi. Ta phải dựng bàn thờ lên tại đây để thờ CHÚA và để cho bệnh dịch này ngưng, không hủy diệt dân chúng nữa.” 22 Ông A-rau-na thưa với vua Đa-vít: “Xin vua chúa tôi tùy nghi sử dụng sân đạp lúa này và dâng tế lễ theo ý bệ hạ. Thưa đây có sẵn bò để dâng tế lễ toàn thiêu, cũng có bàn đạp lúa và ách bò để làm củi. 23 Tâu bệ hạ, A-rau-na xin dâng bệ hạ tất cả những thứ đó.” Ông A-rau-na thưa tiếp: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ nhậm lời bệ hạ!” 24 Nhưng vua đáp: “Không được. Ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi. Ta không muốn dâng lên CHÚA là Đức Chúa Trời của ta những tế lễ toàn thiêu mà ta không mất tiền mua.” Vậy vua Đa-vít mua sân đạp lúa và bò với giá khoảng năm chục sê-ken bạc.[j] 25 Vua Đa-vít dựng lên tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA. Vua dâng lên CHÚA tế lễ toàn thiêu và tế lễ cầu an. CHÚA nhậm lời vua cầu xin cho đất nước, và bệnh dịch ngưng hủy hoại dân Y-sơ-ra-ên.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)