Print Page Options Listen to Reading
Previous Prev Day Next DayNext

The Daily Audio Bible

This reading plan is provided by Brian Hardin from Daily Audio Bible.
Duration: 731 days

Today's audio is from the NET. Switch to the NET to read along with the audio.

New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Thẩm Phán 21 - Ru-tơ 1

Cứu Người Bên-gia-min Khỏi Bị Tuyệt Chủng

21 Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên có thề với nhau tại Mích-ba rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” Rồi dân chúng kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc cách đắng cay rằng: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại sao điều này lại xảy đến cho Y-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị thiếu mất đi một bộ tộc?”

Hôm sau, dân chúng dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Bấy giờ họ nói: “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của Y-sơ-ra-ên không đến dự đại hội trước mặt CHÚA không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba rằng: “Ai không đến sẽ bị xử tử.” Người Y-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min, anh em của họ, và nói: “Ngày nay, một bộ tộc đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên. Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta có thề trước mặt CHÚA rằng chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta làm vợ cho chúng?”

Rồi họ nói: “Có ai trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba chăng?” Họ khám phá ra rằng chẳng có ai từ gia tộc Gia-bê ở Ga-la-át có mặt ở trại quân trong ngày đại hội. Vì khi điểm danh dân chúng không có người nào trong gia tộc của Gia-bê ở Ga-la-át có mặt tại đó. 10 Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lệnh rằng: “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả dân Gia-bê ở Ga-la-át, kể cả phụ nữ và trẻ em. 11 Đây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với một người nam.” 12 Chúng tìm thấy trong dân Gia-bê ở Ga-la-át có bốn trăm trinh nữ, là những người chưa hề ăn nằm với một người nam nào, rồi chúng đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an. 13 Đoạn cả hội chúng phái người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá Rim-môn để làm hòa với họ. 14 Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min này những thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bê ở Ga-la-át; nhưng số thiếu nữ đó không đủ cho chúng. 15 Dân chúng ân hận về việc họ đã làm đối với bộ tộc Bên-gia-min, bởi vì CHÚA đã cho có một chỗ bị khuyết trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. 16 Vậy các trưởng lão của hội chúng nói: “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” 17 Vì họ nói: “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho bộ tộc Bên-gia-min còn sót lại, hầu cho một bộ tộc không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. 18 Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì người Y-sơ-ra-ên đã có thề: “Đáng rủa sả thay cho kẻ gả con gái làm vợ người Bên-gia-min.” 19 Vậy họ nói: “Hãy xem, hằng năm đều có kỳ lễ cho CHÚA tại Si-lô, trong khu vực về phía bắc của Bê-tên, bên phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Si-chem, và phía nam Lê-bô-na.” 20 Họ bảo người Bên-gia-min: “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho; 21 và để ý, khi nào thấy các thiếu nữ ở Si-lô ra múa hát, thì các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người bắt cóc lấy một thiếu nữ để làm vợ cho mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. 22 Nếu cha và anh của chúng có đến kiện cáo với chúng ta, thì chúng ta sẽ bảo họ: ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho họ đi. Vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta không kiếm đủ cho họ mỗi người được một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc phải lời thề.’ ” 23 Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một cô thiếu nữ làm vợ. Rồi họ trở về lãnh thổ của Bên-gia-min. Họ xây dựng lại thành trì và sống ở đó. 24 Còn người Y-sơ-ra-ên thì rời khỏi nơi đó và trở về bộ tộc và gia tộc của mình. Ai nấy đều rời khỏi nơi đó mà trở về lãnh thổ của mình. 25 Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.

Gia Đình Ê-li-mê-léc Qua Mô-áp

Trong thời các thẩm phán trị vì, có một cơn đói kém trong xứ; có một người ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa, đưa vợ và hai con trai mình qua nước Mô-áp sinh sống. Người chồng tên là Ê-li-mê-léc, vợ tên Na-ô-mi, hai con trai tên là Mạc-lôn và Ki-li-ôn. Họ vốn là người Ê-phơ-rát, ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa. Họ đến nước Mô-áp và định cư tại đó. Nhưng Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời, để bà và hai con lại. Hai người con này lấy phụ nữ Mô-áp làm vợ. Một cô tên là Ọt-ba và một cô tên là Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm. Kế đó, cả Mạc-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để Na-ô-mi lại không chồng không con.

Na-ô-mi Và Các Nàng Dâu Mô-áp

Bấy giờ Na-ô-mi và hai con dâu mình chỗi dậy, rời nước Mô-áp để hồi hương, vì lúc ở Mô-áp bà có nghe rằng CHÚA đã đoái thăm dân Ngài và ban cho họ thực phẩm. Vậy bà cùng hai nàng dâu rời bỏ nơi mình đang sống, lên đường trở về xứ Giu-đa. Nhưng Na-ô-mi nói cùng hai con dâu mình rằng: “Các con hãy trở về nhà của mẹ các con đi. Cầu xin CHÚA đối xử tốt với các con, như các con đã đối xử tốt với những người đã qua đời và với mẹ. Nguyện xin CHÚA ban phước cho các con, người nào cũng được an vui trong nhà chồng mới của mình.” Rồi bà hôn họ và họ khóc nức nở.

10 Họ nói với bà: “Không, chúng con sẽ đi với mẹ, cùng về quê hương của mẹ.”

11 Nhưng Na-ô-mi đáp: “Hãy trở về đi, các con gái của mẹ, tại sao các con muốn đi với mẹ? Trong lòng mẹ đâu còn con trai nữa để có thể làm chồng các con? 12 Hãy về đi, các con gái của mẹ. Hãy đi đi. Vì mẹ đã quá già để lấy chồng nữa. Ví dù mẹ nghĩ rằng mẹ vẫn còn hy vọng tái giá. Dù mẹ lấy chồng tối nay và có con trai; 13 liệu các con có thể đợi cho đến khi chúng khôn lớn sao? Các con há có thể không lấy chồng khác sao? Không đâu, các con gái của mẹ ơi, nỗi sầu khổ của mẹ còn đắng cay hơn của các con nhiều. Bởi vì CHÚA đã đưa tay ra nghịch lại mẹ.”

14 Bấy giờ họ lại khóc lớn tiếng nữa. Rồi Ọt-ba ôm hôn và từ giã mẹ chồng mình, nhưng Ru-tơ cứ bám lấy bà. 15 Na-ô-mi bèn nói: “Con xem đó, chị dâu con đã trở về cùng dân tộc nó và cùng các thần của nó; con cũng hãy đi theo chị dâu con đi.”

16 Nhưng Ru-tơ đáp: “Xin mẹ đừng ép con rời xa mẹ, hay bắt con phải trở về mà không theo mẹ. Vì mẹ đi đâu, con sẽ theo đó. Mẹ ở nơi nào, con cũng sẽ ở nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, Đức Chúa Trời của mẹ là Đức Chúa Trời của con. 17 Mẹ chết nơi nào, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Ngoài sự chết, ví bằng có điều chi phân cách con với mẹ, nguyện xin CHÚA giáng họa trên con.”

18 Khi Na-ô-mi thấy Ru-tơ đã quyết chí theo mình, bà không nói thêm với nàng một điều gì nữa.

19 Vậy hai người lên đường đi về Bết-lê-hem. Khi họ vừa đến Bết-lê-hem, cả thành đều xôn xao về hai người. Các bà hỏi nhau: “Có phải đây là Na-ô-mi chăng?”

20 Na-ô-mi đáp: “Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi[a] nữa, nhưng hãy gọi tôi là Ma-ra,[b] vì Đấng Toàn Năng đã đãi tôi cách đắng cay. 21 Tôi ra đi đầy dẫy, nhưng CHÚA đã đem tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi, trong khi CHÚA đã đãi tôi cách khắc nghiệt, và Đấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?”

22 Vậy, Na-ô-mi cùng với Ru-tơ, con dâu mình là người Mô-áp, từ nước Mô-áp trở về. Họ đến Bết-lê-hem nhằm đầu mùa gặt.

Giăng 4:4-42

Ngài thấy cần phải đi con đường băng qua Sa-ma-ri. Vậy, Ngài đến một thị trấn trong miền Sa-ma-ri, tên là Si-kha, gần thửa đất mà xưa Gia-cốp đã cho con là Giô-sép. Tại đó có cái giếng của Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi nên Đức Giê-su ngồi nghỉ bên giếng. Lúc đó, khoảng giữa trưa.

Một người đàn bà Sa-ma-ri ra múc nước. Đức Giê-su bảo: “Cho Ta xin một chút nước uống!” Lúc ấy các môn đệ Ngài đã vào thành phố mua thức ăn.

Người đàn bà Sa-ma-ri đáp: “Ông là người Do Thái, tôi là đàn bà Sa-ma-ri, sao ông lại xin tôi nước uống?” Vì người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri.

10 Đức Giê-su đáp: “Nếu ngươi biết tặng phẩm của Đức Chúa Trời ban và biết Người xin ngươi nước uống là ai, chắc ngươi sẽ xin Người và Người sẽ cho ngươi nước trường sinh!”

11 Bà ấy nói với Ngài: “Thưa ông, gàu ông không có mà giếng lại sâu, làm sao ông múc được nước trường sinh đó? 12 Chẳng lẽ ông hơn cả tổ phụ Gia-cốp chúng tôi sao? Người đã để lại giếng này cho chúng tôi, chính người, con cháu và đàn gia súc đều đã uống giếng này.”

13 Đức Giê-su đáp: “Ai uống nước này rồi cũng khát lại, 14 nhưng uống nước Ta ban cho sẽ chẳng bao giờ khát nữa. Nước Ta ban cho sẽ biến thành mạch nước trong người, tuôn tràn sự sống vĩnh phúc.”

15 Bà nói với Ngài: “Thưa ông, xin cho tôi nước đó để tôi không còn khát và cũng khỏi đến đây múc nước nữa!”

16 Ngài bảo: “Ngươi về gọi chồng ra đây!”

17 Bà đáp rằng: “Tôi không có chồng!” 18 Ngài nói với bà: “Bảo là không chồng thì cũng đúng, vì ngươi đã có năm đời chồng và người ngươi hiện có cũng chẳng phải là chồng! Ngươi đã nói thật đó!”

19 Bà thưa với Ngài: “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một tiên tri của Đức Chúa Trời. 20 Tổ tiên chúng tôi đã thờ phượng trên ngọn núi này, còn các ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi để thờ phượng!”

21 Đức Giê-su đáp: “Hỡi người nữ hãy tin Ta đi, sắp đến lúc ngươi không còn thờ phượng Cha trên ngọn núi này hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. 22 Ngươi thờ phượng Đấng ngươi không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi từ người Do Thái mà đến! 23 Nhưng giờ sắp điểm và thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và lẽ thật, vì Chúa Cha vẫn tìm kiếm những người thờ phượng Ngài như vậy. 24 Đức Chúa Trời là Linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong tâm linh và lẽ thật.”

25 Người đàn bà thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a (nghĩa là Chúa Cứu Thế) sẽ đến và khi đến, Ngài sẽ chỉ bảo cho chúng ta tất cả.”

26 Đức Giê-su đáp: “Ta, người đang nói với ngươi, chính là Đấng đó!”

27 Lúc ấy các môn đệ Ngài vừa về, họ ngạc nhiên thấy Ngài chuyện trò với một người đàn bà, nhưng không ai hỏi Thầy cần gì, hay tại sao lại chuyện trò với người đàn bà ấy?

28 Người đàn bà để vò nước lại, trở vào thành, nói với mọi người: 29 “Hãy đến xem một người đã nói với tôi mọi việc tôi làm. Có phải chăng đây là Chúa Cứu Thế không?” 30 Họ kéo nhau ra khỏi thành đến cùng Ngài.

31 Đang khi đó các môn đệ cứ nài nỉ: “Thưa Thầy, xin mời Thầy ăn!”

32 Ngài trả lời: “Ta có thức ăn mà các con không biết được.”

33 Các môn đệ bèn bảo nhau: “Chẳng lẽ có người đã mời Thầy ăn rồi sao?”

34 Đức Giê-su bảo họ: “Thức ăn của Ta là tuân theo ý muốn của Đấng đã sai Ta và hoàn thành công việc Ngài. 35 Chẳng phải chính các con đã nói còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt, nhưng Ta bảo: Hãy ngước mắt lên nhìn đồng lúa đã vàng, sẵn sàng cho mùa gặt. 36 Thợ gặt đã lãnh tiền công và thu góp hoa lợi vào sự sống vĩnh phúc để kẻ gieo chung vui với người gặt. 37 Thật đúng như câu người ta vẫn nói: Kẻ thì lo gieo, người thì lo gặt. 38 Chính Ta đã sai các con đến gặt ở chỗ mình không gieo, người khác đã nhọc nhằn để các con vào hưởng công lao của họ.”

39 Nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì người đàn bà ấy làm chứng rằng Ngài đã nói với bà mọi điều bà đã từng làm. 40 Vì vậy, những người Sa-ma-ri đến yêu cầu Ngài ở lại với họ, nên Ngài ở đó hai ngày. 41 Người tin Đức Giê-su càng đông thêm khi nghe Ngài giảng dạy.

42 Họ bảo bà ấy: “Bây giờ không phải vì nghe chị nói mà chúng tôi tin đâu, nhưng vì chính chúng tôi đã nghe Ngài dạy, nên chúng tôi biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Rỗi của nhân loại.”

Thánh Thi 105:1-15

Đức Chúa Trời Và Dân Ngài

105 Hãy cảm tạ CHÚA, hãy cầu khẩn Danh Ngài;
    Hãy truyền cho muôn dân biết các việc quyền năng Ngài.
Hãy ca hát cho Chúa, hãy ca ngợi Ngài;
    Hãy công bố tất cả những việc diệu kỳ của Ngài.
Thật vinh hạnh[a] ở trong danh thánh Ngài;
    Nguyện lòng những người tìm kiếm CHÚA được vui vẻ.
Hãy tìm kiếm CHÚA và sức lực Ngài;
    Hãy luôn luôn tìm kiếm sự hiện diện Ngài.[b]
Hãy ghi nhớ những việc diệu kỳ Ngài đã làm;
    Những phép lạ và những phán xét miệng Ngài đã phán.
Hỡi dòng dõi Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài;
    Hỡi con cái Gia-cốp, những người Ngài chọn.
Chính Ngài, CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta;
    Các phán xét của Ngài là cho toàn trái đất.
Ngài nhớ giao ước Ngài mãi mãi,
    Và nhớ lời Ngài đã truyền đến ngàn đời;
Giao ước mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham,
    Lời thề mà Ngài đã thề cùng Y-sác;
10 Ngài cũng xác nhận nó với Gia-cốp như một quy luật;
    Với Y-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời.
11 Ngài phán: Ta sẽ ban cho ngươi vùng đất Ca-na-an,
    Là sản nghiệp của các ngươi.
12 Lúc ấy họ là một nhóm[c] nhỏ,
    Ít người, là kiều dân tạm trú trong xứ;
13 Đi từ nước này sang nước nọ;
    Từ vương quốc này đến dân tộc khác.
14 Ngài không để ai áp bức họ;
    Vì cớ họ, Ngài quở trách các vua;
15 Rằng: “Chớ đụng đến những người được ta xức dầu,
    Đừng làm hại các tiên tri của ta.”

Châm Ngôn 14:24-25

24 Mão của người khôn ngoan là sự giàu có của họ,
    Nhưng sự ngu xuẩn của kẻ ngu dại vẫn là ngu xuẩn.
25 Một nhân chứng thành thật cứu linh hồn người ta,
    Nhưng ai nói dối là kẻ lừa gạt.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)