Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Chronological

Read the Bible in the chronological order in which its stories and events occurred.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Nê-hê-mi 1-5

Nê-hê-mi Cầu Nguyện cho Dân Tộc Ông

Ðây là những lời của Nê-hê-mi con của Ha-ca-li-a:

Vào tháng Kích-lê của năm thứ hai mươi,[a] khi tôi đang ở trong cung điện của vua tại Su-sa, một người trong số các anh em của tôi tên là Ha-na-ni và một vài người từ Giu-đa đến thăm tôi. Tôi hỏi họ về tình hình của những người Do-thái còn sót lại, tức những người không bị bắt đem đi lưu đày, và tôi cũng hỏi thăm họ về Giê-ru-sa-lem.

Họ đáp, “Những người Do-thái còn sót lại trong tỉnh, tức những người không bị bắt đem đi lưu đày, đang ở trong tình cảnh rất khốn khó và nhục nhã. Bức tường bao quanh Thành Giê-ru-sa-lem đã bị sụp đổ, còn các cổng thành đều đã bị lửa thiêu rụi.”

Khi nghe những lời ấy xong, tôi ngồi và khóc. Tôi rầu rĩ như người thọ tang suốt mấy ngày. Tôi kiêng ăn và dâng lời cầu nguyện lên Ðức Chúa Trời trên trời.

Tôi nói, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời trên trời, Ðức Chúa Trời vĩ đại và đáng sợ, Ðấng giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với ai yêu kính Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài, cầu xin Ngài lắng tai nghe và mở mắt nhìn, để nhậm lời cầu nguyện của con, tôi tớ Ngài, đang ngày đêm dâng lên vì các tôi tớ Ngài là dân I-sơ-ra-ên. Con xưng nhận các tội lỗi của dân I-sơ-ra-ên mà chúng con đã phạm đối với Ngài, kể cả nhà của tổ tiên con và chính con đã phạm. Chúng con đã làm đau lòng Ngài rất nhiều; chúng con đã không vâng giữ các điều răn, mạng lịnh, và luật lệ mà Ngài đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài. Cầu xin Ngài nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài rằng, ‘Nếu các ngươi bất trung, Ta sẽ tung rải các ngươi ra giữa các dân; nhưng nếu các ngươi trở về với Ta, gìn giữ, và vâng theo các điều răn của Ta, thì dù những kẻ bị lưu đày của các ngươi ở xa xăm bất cứ nơi nào, Ta cũng sẽ tập họp chúng lại ở đó mà đem chúng về nơi Ta đã chọn để đặt danh Ta.’ 10 Họ là các tôi tớ Ngài và dân Ngài; họ là những người Ngài đã chuộc bằng quyền năng lớn lao và bằng cánh tay mạnh mẽ của Ngài. 11 Lạy Chúa, xin lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời cầu nguyện của các con cái Ngài, những người lấy làm vui mà kính sợ danh Ngài. Cầu xin Ngài cho con được thành công hôm nay và cho con[b] được ơn trước mặt người này.”

Bấy giờ, tôi đang làm quan dâng rượu cho vua.

Sau đó vào tháng Ni-san, năm thứ hai mươi của triều đại Vua Ạc-ta-xẹc-xe, khi rượu được mang đến cho vua, tôi lấy rượu và dâng cho vua. Từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ lộ vẻ buồn bã trước mặt vua. Vì thế vua hỏi tôi, “Tại sao nét mặt ngươi trông buồn bã mặc dù ngươi chẳng đau yếu gì? Ngươi chắc có tâm sự buồn phải không?”

Bấy giờ tôi hết sức lo sợ, tôi tâu với vua, “Hoàng thượng vạn tuế! Làm sao nét mặt của hạ thần không buồn được khi thành, nơi mồ mả của tổ tiên hạ thần, đang bị điêu tàn, các cổng thành đã bị lửa thiêu rụi?”

Vua hỏi tôi, “Ngươi muốn xin điều gì?”

Tôi thầm nguyện với Ðức Chúa Trời ở trên trời, rồi tâu với vua, “Nếu hoàng thượng bằng lòng, và nếu tôi tớ của hoàng thượng được đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng sai hạ thần trở về Giu-đa, về nơi thành có mồ mả của tổ tiên hạ thần, để xây dựng nó lại.”

Vua hỏi tôi, lúc đó có hoàng hậu ngồi bên cạnh, “Ngươi sẽ đi bao lâu? Khi nào ngươi sẽ trở lại?” Thấy vua vui lòng muốn cho tôi đi, tôi đã tâu với vua ngày tôi hẹn sẽ trở lại. Ngoài ra tôi đã xin với vua, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng gởi các chiếu chỉ cho các quan tổng trấn ở Bên Kia Sông, và trao cho hạ thần mang đi, để họ cho phép hạ thần được đi qua lãnh thổ của họ mà về đến Giu-đa. Kính xin hoàng thượng cũng ban chiếu chỉ cho A-sáp, quan phụ trách lâm sản của triều đình, để ông ấy cung cấp gỗ cho hạ thần, hầu hạ thần có thể dựng lại các cổng thành, xây lại Ðền Thờ, tường thành, và nhà cho hạ thần ở.” Vua chuẩn ban cho tôi mọi điều tôi xin, nhờ cánh tay nhân lành của Ðức Chúa Trời của tôi phù hộ tôi.

Sau đó tôi đến gặp các quan tổng trấn ở Bên Kia Sông và trao cho họ các chiếu chỉ của vua. Số là vua đã sai các sĩ quan chỉ huy quân đội và một đoàn kỵ binh cùng đi với tôi. 10 Tuy nhiên khi San-ba-lát lãnh tụ của dân Hô-rô-ni và Tô-bi-a tôi tớ của vua đang cai trị dân Am-môn nghe rằng có người được phép trở về để lo cho dân I-sơ-ra-ên, họ rất bực bội.

Nê-hê-mi Quan Sát Tường Thành Giê-ru-sa-lem

11 Sau khi đã về đến Giê-ru-sa-lem và ở đó được ba ngày, 12 tôi và một vài người cùng đi với tôi thức dậy trong ban đêm. Số là tôi không thố lộ cho người nào biết những gì Ðức Chúa Trời đã đặt trong lòng tôi sẽ làm tại Giê-ru-sa-lem, và cũng không có con vật nào đi với tôi ngoại trừ con vật tôi cỡi. 13 Ðang đêm tôi theo Cổng Thung Lũng đi ra ngoài thành, đến Giếng Mãng Xà, rồi đến Cổng Phân. Tôi đã thấy tận mắt bức tường bao quanh Giê-ru-sa-lem bị đổ nát như thế nào và các cổng thành đã bị lửa thiêu rụi ra sao. 14 Sau đó tôi tiến đến Cổng Suối Nước, rồi đến Hồ Hoàng Gia, nhưng không có chỗ nào cho con vật tôi cỡi có thể đi qua được. 15 Vì thế tôi đi vòng xuống thung lũng, và cứ đi trong đêm mà quan sát những phần còn lại của tường thành. Sau đó tôi đi ngược trở lại để vào thành qua Cổng Thung Lũng và trở về chỗ ở. 16 Các quan chức ở với tôi không biết tôi đã đi đâu và cũng không biết tôi đã làm gì. Lúc ấy tôi chưa nói cho người Do-thái, các tư tế, các nhà quý tộc, các quan chức, hay những người sẽ làm công việc xây dựng biết gì cả. 17 Sau đó tôi nói với họ, “Quý vị chắc đã thấy rõ tình cảnh bi đát của chúng ta, thể nào Giê-ru-sa-lem đang bị hoang phế, và các cổng thành đã bị lửa thiêu rụi. Hãy đến chúng ta hãy cùng nhau xây dựng lại bức tường bao quanh Giê-ru-sa-lem để chúng ta không còn làm cớ cho người ta sỉ nhục nữa.”

18 Tôi đã trình bày cho họ biết thể nào tay của Ðức Chúa Trời đã tốt đối với tôi, và tôi cũng đã nói cho họ biết những lời vua đã nói với tôi. Vì thế họ nói, “Chúng ta hãy đứng lên và xây dựng.” Sau đó họ bắt tay thực hiện công việc tốt đẹp đó.

19 Tuy nhiên khi San-ba-lát lãnh tụ của dân Hô-rô-ni, Tô-bi-a tôi tớ của vua đang cai trị dân Am-môn, và Ghê-sem lãnh tụ của người Ả-rập nghe điều đó, họ cười nhạo chúng tôi. Họ mỉa mai và khinh dể chúng tôi rằng, “Các người tính làm gì đó? Các người tính làm loạn chống lại nhà vua phải không?”

20 Nhưng tôi đáp với họ và bảo họ rằng, “Chính Ðức Chúa Trời ở trên trời sẽ phù hộ chúng tôi; cho nên chúng tôi, các tôi tớ của Ngài, sẽ đứng dậy và xây dựng, nhưng quý vị không có phần gì, không có quyền gì, và cũng không có kỷ niệm gì ở Giê-ru-sa-lem cả.”

Xây Dựng Lại Tường Thành Giê-ru-sa-lem

Bấy giờ Thượng Tế Ê-li-a-síp cùng các anh em của ông, tức các tư tế, đứng dậy khởi công xây lại Cổng Chiên. Họ biệt riêng nó ra thánh và gắn các cánh cửa của nó vào. Sau đó họ xây lại tường thành từ cổng đó cho đến Tháp Mê-a, rồi biệt riêng nó ra thánh; xong rồi họ tiếp tục xây lại tường thành cho đến Tháp Ha-na-nên.

Tiếp theo ông, dân ở Giê-ri-cô xây dựng khúc tường thành kế tiếp.

Tiếp theo họ, Xác-cua con của Im-ri xây lại khúc kế tiếp.

Các con của Hạc-sê-na-a xây lại Cổng Cá. Họ đặt các cây đà vào vị trí của chúng; họ gắn các cánh cửa vào, tra các chốt cửa vào, và xỏ các then cài vào chỗ của chúng.

Tiếp theo họ, Mê-rê-mốt con của U-ri-a, con của Hắc-cô, xây lại.

Tiếp theo họ, Mê-su-lam con của Bê-rê-khi-a, con của Mê-sê-xa-bên, xây lại.

Tiếp theo họ, Xa-đốc con của Ba-a-na, xây lại.

Tiếp theo họ, dân ở Tê-cô-a xây lại; tuy nhiên những người quý tộc của họ không ghé vai vào công việc của Chúa họ.

Giô-i-a-đa con của Pa-sê-a và Mê-su-lam con của Bê-sô-đê-a xây lại Cổng Cũ. Họ đặt các cây đà vào vị trí của chúng; họ gắn các cánh cửa vào, tra các chốt cửa vào, và xỏ các then cài vào chỗ của chúng.

Tiếp theo họ, Mê-la-ti-a người Ghi-bê-ôn và Gia-đôn người Mê-rô-nô-thi, những người ở Ghi-bê-ôn và Mích-pa, các địa hạt thuộc quyền quản trị của vị tổng trấn miền tây Sông Ơ-phơ-rát, xây lại.

Kế ông ấy, U-xi-ên con của Hạc-hai-a, một trong những người thợ bạc, xây lại.

Kế ông ấy, Ha-na-ni-a, một trong những người bào chế nước hoa, xây lại. Họ đã làm cho tường thành Giê-ru-sa-lem trở nên kiên cố đến tận chỗ Tường Rộng.

Tiếp theo họ, Rê-phai-a con của Hu-rơ, người cai trị phân nửa Quận Giê-ru-sa-lem, xây lại.

10 Khúc tường thành kế tiếp nằm ngay trước nhà của Giê-đa-gia con của Ha-ru-máp, nên ông ấy lãnh trách nhiệm xây lại.

Kế ông ấy, Hát-túc con của Ha-sáp-nê-gia xây lại.

11 Manh-ki-gia con của Ha-rim và Hạc-súp con của Pa-hát Mô-áp xây lại khúc tường thành kế tiếp. Họ cũng xây dựng lại Tháp Các Lò.

12 Kế theo ông, Sanh-lum, người cai trị phân nửa Quận Giê-ru-sa-lem, và các con gái của ông xây lại.

13 Ha-nun và dân Xa-nô-a xây lại Cổng Thung Lũng. Họ xây cổng ấy lại, gắn các cánh cửa vào, tra các chốt cửa vào, và xỏ các then cài vào chỗ của chúng. Họ cũng xây lại một khúc tường thành dài năm trăm mét[c] cho đến Cổng Phân.

14 Manh-ki-gia con của Rê-cáp, người cai trị Quận Bết Hạc-kê-rem, xây lại Cổng Phân. Ông xây cổng ấy lại, gắn các cánh cửa vào, tra các chốt cửa vào, và xỏ các then cài vào chỗ của chúng.

15 Sanh-lun con của Côn Hô-xết, người cai trị Quận Mích-pa, xây lại Cổng Suối Nước. Ông xây cổng ấy lại, lợp mái cho cổng, gắn các cánh cửa vào, tra các chốt cửa vào, và xỏ các then cài vào. Ông xây lại tường thành ở khúc ấy cho đến Ao Sê-la[d] kế bên Vườn Ngự Uyển. Sau đó ông xây lại tiếp một khúc tường thành nữa cho đến chỗ các bậc cấp dẫn từ Thành Ða-vít đi xuống.

16 Kế theo ông, Nê-hê-mi-a con của A-xơ-búc, người cai trị Quận Bết Xua, xây lại. Ông xây lại cho đến chỗ đối ngang Lăng Ða-vít, đến Hồ Nhân Tạo, và đến Ðền Tưởng Niệm Chiến Sĩ.

17 Kế ông ấy, những người Lê-vi, dưới sự lãnh đạo của Rê-hum con của Ba-ni, xây lại.

Kế theo ông, Ha-sa-bi-a, người cai trị phân nửa Quận Kê-la, xây lại phần tường thành nơi quận của ông.

18 Kế theo ông, các anh em trong dòng họ của ông do Ba-vai con của Hê-na-đát, người cai trị phân nửa kia của Quận Kê-la, chỉ huy cuộc tu bổ.

19 Tiếp theo ông, Ê-xe con của Giê-sua, người cai trị ở Mích-pa, xây lại khúc tường thành đối ngang với dốc đi lên Kho Binh Khí, nằm ở góc thành.

20 Kế ông ấy, Ba-rúc con của Xáp-bai nhiệt tình xây lại khúc tường thành từ góc thành đến cổng của tư thất Thượng Tế Ê-li-a-síp.

21 Kế theo ông, Mê-rê-mốt con của U-ri-gia, con của Cô-xơ, xây lại khúc tường thành từ cổng của tư thất Ê-li-a-síp cho đến cuối tư thất của Ê-li-a-síp.

22 Kế tiếp ông, các tư tế sống ở đồng bằng xây lại.

23 Tiếp theo họ, Bên-gia-min và Hạc-súp xây lại phần tường thành đối ngang nhà của họ.

Tiếp theo họ, A-xa-ri-a con của Ma-a-sê-gia, con của A-na-ni-a, xây lại khúc tường thành kế bên nhà ông ấy.

24 Kế ông, Bin-nui con của Hê-na-đát xây lại một phần khác, từ nhà của A-xa-ri-a cho đến chỗ có trụ tường và cả góc tường thành.

25 Pa-lanh con của U-xai xây lại phần phía trước góc tường thành và cái tháp nhô ra từ thượng cung của đền vua, gần sân của các vệ binh và nhà tù.

Kế ông ấy, Pê-đa-gia con của Pa-rốt xây lại.

26 Những người phục vụ Ðền Thờ sống ở Ðồi Ô-phên xây lại khúc tường thành kế tiếp cho đến chỗ đối ngang Cổng Nước ở phía đông, nơi có tháp nhô ra.

27 Tiếp theo họ, dân ở Tê-cô-a xây lại một khúc tường thành khác, từ chỗ tháp lớn nhô ra cho đến khúc tường tại Ô-phên.

28 Từ Cổng Ngựa trở đi, các tư tế chịu trách nhiệm tu bổ; người nào xây lại khúc tường trước nhà người nấy.

29 Tiếp theo họ, Xa-đốc con của Im-me xây lại khúc tường trước mặt nhà ông.

Tiếp theo ông, Sê-ma-gia con của Sê-ca-ni-a, người giữ Cổng Ðông, xây lại khúc kế tiếp.

30 Kế ông, Ha-na-ni-a con của Sê-la-mi-a và Ha-nun con thứ sáu của Xa-láp xây lại khúc tường thành kế tiếp.

Tiếp theo họ, Mê-su-lam con của Bê-rê-ki-a xây lại phần tường thành đối ngang nơi ông ở.

31 Kế ông, Manh-ki-gia, một trong các thợ kim hoàn, xây lại khúc tường thành cho đến tòa nhà dành cho những người phục vụ Ðền Thờ và những người mua đồ cung cấp cho Ðền Thờ. Ðó là nơi đối ngang Cổng Khám Xét. Ông tiếp tục xây lại cho đến phòng cao ở góc thành.

32 Khúc tường thành ở giữa phòng cao của góc thành và Cổng Chiên do các thợ kim hoàn và các thương gia xây lại.

Khi San-ba-lát nghe rằng chúng tôi đang xây lại tường thành, ông nổi giận và cực kỳ tức tối. Ông chế nhạo người Do-thái. Ông nói trước mặt anh em của ông và đạo quân Sa-ma-ri, “Bọn Do-thái nhu nhược đó đang làm gì thế? Chúng tưởng chúng có thể xây lại được tường thành ấy sao? Bọn chúng tính sẽ dâng của tế lễ sao? Chúng há có thể hoàn tất công việc ấy trong một ngày sao? Chúng há có thể làm cho đống đá đổ nát đã bị cháy ấy được xây dựng lại sao?”

Lúc ấy Tô-bi-a người Am-môn đang đứng bên cạnh ông cũng nói, “Những gì bọn đó xây dựng, nếu có một con chồn leo lên, bức tường đá ấy ắt sẽ đổ xuống ngay!”

“Ðức Chúa Trời của chúng con ôi, xin đoái nghe, vì chúng con bị khinh khi quá đỗi. Xin Ngài đổ nỗi sỉ nhục do chúng gây ra trở lại trên đầu chúng. Xin ban chúng làm chiến lợi phẩm cho quân thù của chúng, để chúng phải vào trong xứ chúng sẽ bị lưu đày. Xin Ngài đừng che đậy tội lỗi của chúng. Xin đừng xóa bỏ tội của chúng khỏi thánh nhan Ngài, vì chúng đã thốt ra những lời sỉ nhục trước mặt những người đang nỗ lực xây dựng.”

Dù chúng nói vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục xây lại tường thành cho đến khi bức tường xây lên được một nửa, vì dân chúng đã chuyên tâm làm việc.

Tuy nhiên khi San-ba-lát, Tô-bi-a, những người Ả-rập, những người Am-môn, và những người Ách-đốt nghe rằng việc xây lại tường thành Giê-ru-sa-lem đã tiến triển tốt đẹp, những chỗ đổ vỡ của tường thành đã được xây sửa lại, họ rất tức giận. Tất cả những người ấy lập mưu với nhau để tiến đánh Giê-ru-sa-lem hầu gây trở ngại cho công cuộc tái thiết. Nhưng chúng tôi cầu nguyện với Ðức Chúa Trời của chúng tôi và đặt người canh gác để đề phòng chúng cả ngày lẫn đêm. 10 Bấy giờ người Giu-đa nói, “Sức lực của các nhân công đã kiệt quệ, còn các đống đổ nát lại quá lớn. Chúng ta sẽ không thể nào xây lại tường thành này được đâu.” 11 Trong khi ấy những kẻ thù của chúng tôi bảo, “Bọn chúng sẽ không biết và không thấy gì cho đến khi chúng ta ập vào giữa chúng, giết chúng, và làm ngưng công cuộc tái thiết ấy.” 12 Tuy nhiên những người Do-thái sống bên cạnh chúng đã đến báo cho chúng tôi hay đến mười lần rằng quân thù khắp nơi sẽ kéo đến tấn công chúng tôi. 13 Vì thế tôi đặt những người được vũ trang phía sau những chỗ thấp và trống trải của tường thành. Tôi bố trí họ theo từng dòng họ và trang bị họ với gươm, giáo, và cung tên. 14 Sau khi đã thị sát, tôi đứng dậy và nói với các nhà quý tộc, các quan chức, và những người dân còn lại rằng, “Xin anh chị em chớ sợ chúng. Hãy nhớ rằng Chúa là Ðấng vĩ đại và đáng kinh hãi. Hãy chiến đấu cho anh chị em[e] mình, cho con trai, con gái, vợ, và nhà mình.”

15 Khi quân thù của chúng tôi nghe báo cáo rằng chúng tôi đã biết rõ âm mưu của chúng, và Ðức Chúa Trời đã làm bại mưu của chúng, bấy giờ tất cả chúng tôi trở lại chỗ làm của mình nơi tường thành, và tiếp tục việc ai nấy làm.

16 Kể từ đó trở đi, phân nửa nhân lực của tôi làm công việc xây cất, còn phân nửa kia mặc áo giáp đứng canh gác với giáo mác, thuẫn khiên, và cung nỏ bên mình. Những người chỉ huy của họ đứng phía sau điều động toàn thể nhà Giu-đa. 17 Những người xây thành và những người khuân vác đều chia sẻ trách nhiệm: một tay làm việc, một tay cầm binh khí. 18 Mỗi người xây dựng đều mang một thanh gươm bên mình trong khi làm việc, còn người thổi kèn hiệu lịnh luôn ở bên cạnh tôi. 19 Tôi nói với các nhà quý tộc, các quan chức, và những người dân còn lại rằng, “Công việc quá lớn lao và trải rộng, trong khi chúng ta làm việc cách khoảng với nhau trên tường thành, nhóm này cách xa nhóm nọ. 20 Vì thế mỗi khi anh em nghe tiếng kèn trỗi lên ở nơi nào, anh em hãy tập trung về nơi đó với chúng tôi. Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta!”

21 Cứ như thế chúng tôi nỗ lực làm việc, ngày nào cũng từ sáng sớm đến chiều tối. Một nửa nhân lực luôn cầm giáo đứng canh chừng quân thù đến tấn công.

22 Lúc đó tôi cũng nói với những người sống ở xa về giúp, “Mọi người, kể cả các tôi tớ của họ, hãy vào trong Thành Giê-ru-sa-lem mà qua đêm, để họ có thể chia sẻ việc canh gác ban đêm, rồi cùng nhau làm việc ban ngày.”

23 Cứ như thế, chính mình tôi, các anh em của tôi, các tôi tớ của tôi, và các vệ sĩ đi theo tôi, không ai cởi bỏ chiến y của mình ra, nhưng ai nấy lúc nào cũng mang vũ khí bên mình, ngay cả khi tắm rửa cũng để vũ khí cận kề.

Giải Quyết Tệ Nạn Xã Hội

Lúc ấy dân và vợ của họ lớn tiếng kêu la phản đối những người Do-thái anh chị em của họ. Có người đã nói, “Gia đình chúng tôi đông miệng ăn, gồm chúng tôi, các con trai chúng tôi, và các con gái chúng tôi. Chúng tôi cần có lúa để ăn và sống.” Một số người khác nói, “Chúng tôi phải cầm cố ruộng đất, vườn nho, và nhà cửa mới có lúa ăn trong thời đói kém.” Một số khác lại nói, “Chúng tôi phải thế chấp ruộng đất và vườn nho của mình mới vay được tiền đóng thuế cho vua, trong khi đó chúng tôi đều là người cùng máu mủ ruột thịt như anh chị em mình, con cái chúng tôi cũng như con cái họ, thế mà chúng tôi bị buộc phải bắt con trai và con gái chúng tôi làm tôi đòi cho họ. Thật vậy một số con gái chúng tôi đã phải làm nô tỳ. Chúng tôi không có quyền gì cả, vì ruộng đất và vườn nho của chúng tôi đều đã thuộc quyền của người khác rồi.”

Khi tôi nghe những lời kêu ca và phản đối ấy, tôi nổi giận. Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi trách những nhà quý tộc và những người cầm quyền trong dân. Tôi nói với họ, “Ai nấy trong quý vị đều cho anh chị em mình vay và lấy lãi quá cao.” Sau đó tôi triệu tập một cuộc họp trọng thể để giải quyết việc ấy với họ. Tôi nói với họ, “Chúng tôi đã chuộc lại anh chị em người Do-thái chúng ta vốn bị bán làm nô lệ cho các dân ngoại, nhưng bây giờ quý vị lại bán anh chị em mình, khiến họ phải làm nô lệ cho người khác, để rồi chúng tôi lại phải chuộc họ thêm lần nữa sao?” Họ đều làm thinh và không thể đáp lại được lời nào. Tôi nói tiếp, “Những gì quý vị làm là không tốt. Há chẳng phải tất cả chúng ta phải sống với nhau trong sự kính sợ Ðức Chúa Trời để các dân ngoại, những kẻ thù của chúng ta, không khinh bỉ chúng ta sao? 10 Chính tôi, các anh em tôi, và các tôi tớ của tôi cũng cho vay tiền và lúa gạo vậy. Tôi xin quý vị hãy xóa bỏ việc cho vay nặng lãi ấy đi. 11 Ngay hôm nay tôi xin quý vị hãy trả lại cho anh chị em mình ruộng đất của họ, các vườn nho của họ, các rẫy ô-liu của họ, và nhà cửa của họ; xin hãy xóa bỏ luôn các lãi suất quá cao về tiền bạc, lúa gạo, rượu mới, và dầu ô-liu mà họ đã vay của quý vị.”

12 Họ trả lời, “Chúng tôi sẽ trả lại cho họ. Chúng tôi sẽ không đòi họ phải trả gì nữa. Chúng tôi sẽ làm những gì ông nói.”

Bấy giờ tôi mời các vị tư tế đến để lập một lễ tuyên thệ hầu họ có thể thề sẽ làm những gì họ đã hứa.

13 Tôi cũng giũ vạt áo của tôi và nói, “Nguyện Ðức Chúa Trời sẽ giũ sạch nhà cửa và tài sản của người nào không giữ lời hứa của mình. Nguyện Ngài sẽ giũ nó như thế này, để nó sẽ trở nên trắng tay.”

Bấy giờ toàn thể hội chúng nói “A-men!” và cất tiếng ca ngợi Chúa. Sau đó những người ấy thực hiện những gì họ đã hứa.

Lòng Hào Sảng của Nê-hê-mi

14 Ngoài ra kể từ khi tôi được bổ nhiệm làm tổng trấn của họ trong xứ Giu-đa, tức từ năm thứ hai mươi cho đến năm thứ ba mươi hai của triều đại Vua Ạc-ta-xẹc-xe –mười hai năm– tôi và những người phụ tá của tôi không nhận lương bổng mà chúng tôi được quyền hưởng. 15 Nhưng các tổng trấn trước tôi đã làm gánh nặng cho dân. Ngoài việc họ được cung cấp thực phẩm và rượu mỗi ngày, họ còn đòi dân phải chu cấp cho họ nửa ký[f] bạc. Ngay cả những người phụ tá của họ cũng bắt nạt dân. Nhưng tôi không làm thế, vì tôi kính sợ Ðức Chúa Trời. 16 Thật vậy tôi đã đổ tâm huyết vào việc xây dựng lại tường thành và không màng gì đến việc mua ruộng đất cho mình. Tất cả các tôi tớ của tôi đều tập trung tại đó để làm việc. 17 Ngoài ra có chừng một trăm năm mươi quan chức người Do-thái thường ăn uống tại bàn tôi, không kể những quan khách ngoại quốc từ các nước đến. 18 Mỗi ngày người ta làm thịt một con bò, sáu con chiên mập, và rất nhiều gà vịt để thết đãi. Cứ mỗi mười ngày, người ta lại chở đến một đợt gồm nhiều loại rượu. Dù vậy tôi vẫn không đòi hỏi bổng lộc dành cho một tổng trấn, bởi vì công việc chung trong sự tái thiết tường thành đã đủ nặng nhọc cho dân này rồi.

19 “Ðức Chúa Trời của con ôi, cầu xin Ngài nhớ đến con và ban phước cho con, vì tất cả những gì con đã làm cho dân này.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang