Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Chronological

Read the Bible in the chronological order in which its stories and events occurred.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ê-xơ-ra 4-6

Sự Chống Ðối Công Cuộc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Khi những kẻ thù của người Giu-đa và người Bên-gia-min nghe rằng những người bị lưu đày nay đã trở về và đã khởi công xây lại Ðền Thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chúng đến gặp Xê-ru-ba-bên và các vị trưởng tộc và nói với họ, “Xin cho chúng tôi cùng xây dựng Ðền Thờ với quý vị, vì chúng tôi cũng thờ phượng Ðức Chúa Trời của quý vị như quý vị. Chúng tôi đã dâng các của tế lễ lên Ngài kể từ ngày Ê-sạc-hát-đôn[a] vua A-sy-ri đem chúng tôi đến định cư ở đây.”

Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và tất cả các vị trưởng tộc của người I-sơ-ra-ên đáp với họ, “Quý vị sẽ không dự phần gì trong việc xây lại Ðền Thờ cho Ðức Chúa Trời của chúng tôi, nhưng chỉ chúng tôi sẽ xây dựng lại Ðền Thờ cho Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, như Sy-ru[b] vua Ba-tư đã truyền cho chúng tôi.”

Bấy giờ dân đã cư ngụ sẵn trong xứ lấy làm bất mãn về quyết định của người Do-thái, vì thế chúng quyết tâm làm cho họ phải lo sợ trong việc tái xây dựng Ðền Thờ. Chúng hối lộ các mưu sĩ để bọn đó ton hót với vua hầu làm ngưng công cuộc tái xây dựng. Do đó công việc đã bị đình trệ suốt triều đại của Sy-ru vua Ba-tư mãi đến triều đại của Ða-ri-út[c] vua Ba-tư.

Chi Tiết về Nỗ Lực Cản Trở Việc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Vào triều đại của A-ha-suê-ru,[d] trong năm ông vừa mới đăng quang, chúng làm một bản cáo trạng gởi lên vu cáo dân Do-thái và Giê-ru-sa-lem.

Trong thời của Ạc-ta-xẹc-xe:[e] Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và đồng bọn của chúng đã viết một bản cáo trạng tâu với Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư. Bản cáo trạng ấy được viết bằng tiếng A-ram và dịch ra từ tiếng A-ram.

Rê-hum tổng trấn và Sim-sai thư ký đã viết một văn thư tố cáo Giê-ru-sa-lem gởi lên Vua Ạc-ta-xẹc-xe với nội dung như sau:

“Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, các quan đồng liêu, các thẩm phán, các khâm sai, các viên chức chính quyền, các nhà lãnh đạo người Ba-tư, các nhà lãnh đạo người Ê-rết, các nhà lãnh đạo người Ba-by-lôn, các nhà lãnh đạo dân Su-san tức dân Ê-lam, 10 và toàn thể các dân mà ngài Ốt-náp-pa vĩ đại và lừng danh đã trục xuất và đem đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri và trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông,[f] đồng tấu:” 11 (và đây là bản sao cáo trạng chúng đã gởi):

“Tâu Vua Ạc-ta-xẹc-xe:

Các tôi tớ của hoàng thượng, tức các dân sống trong tỉnh Bên Kia Sông kính lời chào thăm hoàng thượng. Bây giờ 12 chúng thần xin kính trình để hoàng thượng được kính tường:

Bọn Do-thái rời khỏi hoàng thượng đã đến với chúng thần và chúng đã về tới Giê-ru-sa-lem. Hiện nay chúng đang xây dựng lại cái thành phản loạn và gian ác ấy. Chúng sắp sửa xây xong các tường thành và đang xây sửa các nền móng của Ðền Thờ. 13 Kính tâu để hoàng thượng được tường rằng: nếu thành ấy được xây lại xong và các tường thành của nó được hoàn tất, thì chúng sẽ không nộp triều cống, không đóng thuế, và không nộp thuế lưu thông cho hoàng thượng nữa. Như vậy công quỹ của hoàng thượng sẽ bị thiệt thòi. 14 Nay vì chúng thần được hưởng lộc của hoàng thượng,[g] chúng thần không nỡ nhìn thấy hoàng thượng phải bị thiệt hại, vì thế chúng thần đồng kính gởi bản báo cáo nầy lên hoàng thượng. 15 Kính xin hoàng thượng cho lục lại trong văn khố của các tiên vương. Chúng thần tin rằng các văn kiện ấy sẽ cho hoàng thượng thấy rõ thành ấy quả là một thành phản loạn, đã gây nhiều phiền phức cho các tiên vương và các tỉnh, một thành có lịch sử chuyên môn dấy loạn, vì thế nó đã bị hủy diệt. 16 Chúng thần xin quả quyết với hoàng thượng rằng một khi thành ấy được xây lại xong, và các tường thành của nó được hoàn tất, hoàng thượng sẽ bị mất hết cả tỉnh Bên Kia Sông.”

17 Thế là vua ban một sắc lệnh để trả lời:

“Gởi Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và tất cả các quan chức ở Sa-ma-ri và các miền khác trong tỉnh Bên Kia Sông:

Chào tất cả.

18 Bức thư các ngươi gởi đến ta đã được dịch ra và đọc rõ trước mặt ta. 19 Ta đã truyền cho lục trong văn khố và đã thấy thành ấy quả là thành có thành tích phản loạn chống lại các tiên vương. Thành ấy đúng là cái nôi của sự phản loạn và dấy nghịch. 20 Giê-ru-sa-lem đã từng có các vua hùng cường trị vì ở đó. Dân trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông đã từng nộp triều cống, đóng thuế, và nộp thuế lưu thông cho các vua ấy. 21 Nay các ngươi hãy truyền lịnh của ta cho những người ấy rằng chúng phải đình chỉ ngay công việc tái thiết, để thành ấy không được xây dựng lại cho đến khi ta có quyết định mới. 22 Các ngươi khá cẩn thận và chớ lơ đễnh thi hành việc nầy. Tại sao các ngươi để cho vua bị thiệt hại thêm?”

23 Khi bản sao sắc lệnh của vua được đọc cho Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và bè lũ của chúng, chúng vội vàng kéo đến Giê-ru-sa-lem để gặp người Do-thái và dùng quyền lực cùng vũ lực bắt buộc họ phải đình chỉ ngay công cuộc tái thiết. 24 Vậy công cuộc tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đã bị ngưng trệ. Việc ấy đã bị gián đoạn mãi cho đến năm thứ hai[h] của triều đại Ða-ri-út vua Ba-tư.

Ðền Thờ Ðược Tiếp Tục Xây Dựng

Lúc ấy Tiên Tri Ha-gai[i] và Tiên Tri Xa-cha-ri[j] thuộc dòng dõi của I-đô đã nhân danh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng ngự trên họ, để nói tiên tri động viên người Do-thái. Bấy giờ Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và Giê-sua con của Giô-xa-đắc đứng dậy tiếp tục xây dựng lại Nhà Ðức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem. Họ có các vị tiên tri của Ðức Chúa Trời hỗ trợ.

Lúc đó Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng đến nói với họ, “Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?” Chúng cũng hỏi họ, “Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?” Nhưng mắt Ðức Chúa Trời của họ đoái xem họ, tức các vị trưởng lão của dân Do-thái, nên họ không chịu bỏ dở công cuộc tái thiết cho đến khi họ gởi bản tường trình tâu với Ða-ri-út và nhận được văn thư phúc đáp của vua bày tỏ quyết định rõ ràng về việc ấy.

Ðây là bản sao bức thư của Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng trong tỉnh Bên Kia Sông gởi cho Vua Ða-ri-út. Chúng gởi cho vua một bức thư, nội dung như sau:

“Kính gởi Vua Ða-ri-út:

Kính chúc hoàng thượng được an khang thịnh vượng. Chúng thần xin kính tâu để hoàng thượng được kính tường rằng: Chúng thần đã đến tỉnh Giu-đa, đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời vĩ đại. Dân ở đó đang xây cất Ðền Thờ ấy bằng những khối đá lớn. Các cây đà đã được đặt trên đầu tường. Công việc xây cất ấy được thực hiện một cách rất cần mẫn và đang tiến hành cách tốt đẹp trong tay họ. Chúng thần đã hỏi các trưởng lão của họ và nói với họ thế nầy, ‘Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?’ 10 Chúng thần cũng hỏi họ, ‘Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?’ để chúng thần có tên những người cầm đầu của họ mà báo cáo. 11 Nhưng họ đã trả lời với chúng thần như thế nầy, ‘Chúng tôi là tôi tớ của Ðức Chúa Trời, Chủ Tể của trời và đất. Chúng tôi chỉ tái thiết ngôi đền nầy, vốn đã được xây dựng nhiều năm về trước, do một vua vĩ đại của I-sơ-ra-ên đã xây cất và hoàn tất. 12 Nhưng sau đó vì tổ tiên chúng tôi đã chọc giận Ðức Chúa Trời trên trời, nên Ngài đã trao chúng tôi vào tay Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn người Canh-đê. Vua ấy đã phá tan ngôi đền nầy, và bắt dân trong xứ đem lưu đày ở Ba-by-lôn. 13 Nhưng trong năm đầu của Sy-ru vua Ba-by-lôn, Vua Sy-ru đã ban một sắc lệnh truyền xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. 14 Ngay cả các khí dụng bằng vàng và bằng bạc của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy ra khỏi Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem và đem về để trong đền thờ ở Ba-by-lôn cũng đã được Vua Sy-ru lấy ra khỏi đền thờ ở Ba-by-lôn và trao cho một người tên là Sết-ba-xa, người mà vua ấy đã lập làm tổng trấn. 15 Vua ấy đã nói với ông ta, “Hãy lấy các khí dụng nầy và đi, đem để chúng trong Ðền Thờ ở tại Giê-ru-sa-lem. Hãy xây dựng lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ của đền ấy.” 16 Vì thế Sết-ba-xa đã đến và xây dựng lại nền của Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem. Từ đó đến nay, công việc xây cất ấy vẫn còn diễn tiến, nhưng chưa hoàn tất.’

17 Vậy bây giờ nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng cho truy lục trong văn khố của triều đình tại Ba-by-lôn để xem Vua Sy-ru có thật sự ra sắc lệnh xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem hay không. Sau đó kính xin hoàng thượng cho chúng thần một văn thư xác nhận ý chỉ của hoàng thượng về việc nầy.”

Sắc Lệnh của Ða-ri-út

Vậy Vua Ða-ri-út ra lịnh truy lục trong các kho văn khố, nơi các bửu vật được cất giữ ở Ba-by-lôn. Người ta tìm thấy ở Ðiện Éc-ba-ta-na trong tỉnh Mê-đi-a một cuộn sách, trong đó có viết thế nầy:

“Hồ sơ:

‘Năm thứ nhất của Vua Sy-ru, Vua Sy-ru ban hành một sắc lệnh:

Về Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem:

Hãy xây dựng đền ấy lại để làm nơi dâng các con vật hiến tế. Hãy xây dựng nền đền ấy thật vững chắc. Chiều cao của đền sẽ ba mươi mét và chiều rộng sẽ ba mươi mét.[k] Ðền sẽ có ba hàng đá khối và một hàng gỗ mới làm đà ngang. Mọi chi phí sẽ được trang trải từ ngân quỹ của triều đình. Ngoài ra tất cả các khí dụng bằng vàng và bằng bạc trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy trong Ðền Thờ tại Giê-ru-sa-lem và mang về Ba-by-lôn phải được trả lại, và phải đem về chỗ cũ của chúng trong Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem; món nào trả về chỗ nấy trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.’

Vậy bây giờ, hỡi Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng Sê-tha Bô-xê-nia, và các quan đồng liêu của các ngươi trong tỉnh Bên Kia Sông: Hãy dang xa khỏi nơi đó. Chớ can thiệp vào việc xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Hãy để tổng trấn của người Do-thái và các trưởng lão của người Do-thái xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ của nó.

Ngoài ra ta ban lịnh nầy cho các ngươi, để các ngươi biết phải làm gì với các trưởng lão của dân Do-thái trong việc xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời:

Các ngươi hãy lấy tiền thuế nộp cho triều đình của tỉnh Bên Kia Sông trả các chi phí cho những người ấy. Các ngươi khá làm việc ấy ngay, để công việc xây cất Ðền Thờ ấy không bị chậm trễ. Ngoài ra những gì các tư tế ở Giê-ru-sa-lem cần có để làm các của lễ thiêu dâng lên Ðức Chúa Trời trên trời như các bò đực tơ, các chiên đực, các chiên con, hoặc lúa mì, muối, rượu, và dầu, thì các ngươi khá cung cấp cho đầy đủ mỗi ngày, chớ để bị thiếu, 10 hầu họ có thể dâng các của lễ có mùi thơm lên Ðức Chúa Trời trên trời và cầu nguyện cho vua và các hoàng tử được an khang trường thọ.

11 Ngoài ra ta cũng ban lịnh nầy: Bất cứ kẻ nào vi phạm sắc lệnh nầy, hãy lấy một cây đà trong nhà nó, dựng lên, và treo cổ nó trên đó; và vì cớ nó dám vi phạm sắc lệnh nầy, hãy biến nhà nó thành ra một chỗ đổ phân.

12 Cầu xin Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn đặt danh Ngài tại Giê-ru-sa-lem[l] lật đổ mọi vua và mọi nước nào dám thay đổi sắc lệnh nầy và dám phá hủy Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.

Ta, Ða-ri-út, ban hành sắc lệnh nầy. Các ngươi khá cần mẫn mà thi hành.”

Hoàn Tất Công Trình Xây Dựng Lại Ðền Thờ

13 Bấy giờ Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng Sê-tha Bô-xê-nia, và các quan đồng liêu của họ trong tỉnh Bên Kia Sông bèn thi hành một cách chu đáo sắc lệnh của vua đã ban ra. 14 Các trưởng lão của người Do-thái đã tái thiết và thành công dưới sự giảng dạy[m] của Tiên Tri Ha-gai và Xa-cha-ri một người trong dòng dõi của I-đô. Họ hoàn tất chương trình xây cất theo lịnh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên và theo sắc lệnh của Sy-ru, Ða-ri-út, và Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư. 15 Vậy Ðền Thờ ấy đã được xây lại xong vào ngày mồng ba tháng A-đa năm thứ sáu[n] của triều đại Ða-ri-út.

Lễ Khánh Thành Ðền Thờ

16 Sau đó dân I-sơ-ra-ên, gồm các tư tế, những người Lê-vi, và dân lưu đày trở về đã tổ chức lễ khánh thành[o] Ðền Thờ Ðức Chúa Trời một cách vui mừng. 17 Ðể cử hành lễ khánh thành Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, họ dâng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, và bốn trăm con chiên con để làm của lễ chuộc tội cho toàn dân I-sơ-ra-ên. Họ cũng dâng mười hai con dê đực, mỗi con cho một chi tộc của dân I-sơ-ra-ên. 18 Họ lập các tư tế vào các phẩm trật của họ và những người Lê-vi vào các chức vụ của họ, để đảm trách việc thờ phượng Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, theo những gì đã viết trong Sách của Môi-se.

Cử Hành Lễ Vượt Qua

19 Ngày mười bốn tháng giêng,[p] dân lưu đày trở về đã cử hành Lễ Vượt Qua. 20 Các tư tế và những người Lê-vi thanh tẩy chính họ và tất cả đều được thanh sạch theo nghi thức tôn giáo. Những người Lê-vi giết con vật hiến tế của Lễ Vượt Qua cho toàn dân lưu đày trở về, cho bà con dòng họ của họ là các tư tế, và cho chính họ.

21 Vậy dân I-sơ-ra-ên trở về từ chốn lưu đày đã ăn thịt con vật hiến tế. Họ đã ăn thịt con vật ấy với những người đã tự ý tách rời khỏi cách thờ phượng cúng bái bất khiết của các dân sống trong xứ hầu tìm kiếm Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 22 Họ đã hân hoan cử hành Lễ Bánh Không Men bảy ngày, vì Chúa đã ban cho lòng họ tràn đầy niềm vui vì Ngài đã thay đổi lòng của vua A-sy-ri đối với họ. Ông ấy đã giúp đỡ họ trong việc tái xây dựng Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, Thần[q] của dân I-sơ-ra-ên.

Thánh Thi 137

Lòng Buồn Thảm của Những Người Bị Lưu Ðày

Chúng tôi ngồi bên bờ sông ở Ba-by-lôn;
Chúng tôi nhớ đến Si-ôn và khóc.
Chúng tôi treo cây đàn của mình trên cành liễu bên sông,
Vì những kẻ đem chúng tôi lưu đày bắt chúng tôi phải hát;
Những kẻ hành hạ chúng tôi bắt chúng tôi phải ca;
Chúng bảo, “Hãy hát cho chúng tôi nghe những bài ca của Si-ôn.”
Nơi đất khách quê người,
Làm sao chúng tôi có thể hát được bài ca tôn ngợi Chúa?

Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu ta quên ngươi,
Nguyện tay phải ta quên tài năng của nó.
Nếu ta không còn nhớ đến ngươi,
Nếu ta không thích Giê-ru-sa-lem hơn điều gì vui nhất của ta,
Nguyện lưỡi ta dính cứng vào hốc miệng ta.

Chúa ôi, xin nhớ lại những lời dân Ê-đôm đã nói trong ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ,
Chúng bảo, “Hãy phá hủy nó. Hãy san bằng nó thành bình địa.”
Hỡi con gái của Ba-by-lôn, kẻ sẽ bị tiêu diệt,
Phước cho người nào báo trả ngươi, về những đau khổ ngươi gây cho chúng ta.
Phước cho người nào bắt các con thơ của ngươi,
Và đập chúng vào các gành đá!

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang