Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Thánh Thi 89:14-108:13

14 Nước Ngài được xây dựng trên nền công bằng và chính trực.
    Tình yêu và sự thành tín đi trước Ngài.
15 Phúc cho người học tập ca ngợi [a] Ngài.
    Lạy Chúa, đó là những người bước đi trong ánh sáng của sự hiện diện Ngài.
16 Họ vui mừng trong Chúa mỗi ngày,
    luôn luôn ca tụng lòng nhân ái Ngài.
17 Ngài là sức mạnh vinh hiển của họ,
    Quyền năng của họ do Ngài mà ra.
18 Thuẫn che chở của chúng tôi
    là vua, Đấng thánh của Ít-ra-en.
19 Trước đây, trong sự hiện thấy,
Chúa phán với những kẻ trung thành đi theo Ngài.
    Ngài bảo, “Ta đã ban sức mạnh cho dũng sĩ,
Từ trong dân ta, ta đã cất nhắc một chàng trai trẻ.
20 Ta đã tìm được Đa-vít, kẻ tôi tớ ta;
    Ta đã đổ dầu thánh ta lên người để bổ nhiệm người.
21 Tay ta sẽ giữ người đứng vững,
    cánh tay ta sẽ thêm sức mạnh cho người.
22 Không có kẻ thù nào kiểm soát người,
    cũng không có kẻ ác nào đánh thắng người được.
23 Ta sẽ đè bẹp kẻ thù người trước mặt người;
    Ta sẽ đánh bại các kẻ ghét người.
24 Lòng thành tín và tình yêu ta sẽ ở cùng người.
    Người sẽ vững mạnh trong ta.
25 Ta sẽ ban cho người quyền trên đại dương,
    và quyền kiểm soát các sông ngòi.
26 Người sẽ thưa với ta, ‘Ngài là Cha tôi,
    Là Thượng Đế, Khối Đá và là Đấng Cứu Rỗi tôi.’
27 Ta sẽ lập người làm con trưởng nam ta,
    vua cao sang nhất trên đất.
28 Tình yêu ta sẽ chăm nom người mãi mãi,
    giao ước ta với người sẽ không bao giờ chấm dứt.
29 Ta sẽ làm cho gia tộc người còn mãi,
    và nước người bền như bầu trời.
30 Nếu con cháu người gạt bỏ sự dạy dỗ ta,
    không theo luật lệ ta,
31 nếu chúng không đếm xỉa đến
    điều ta muốn,
    bất vâng phục mệnh lệnh ta,
32 thì ta sẽ trị tội chúng bằng roi,
    chỉnh sự sai lầm chúng bằng roi quất.
33 Nhưng ta sẽ không rút lại tình yêu ta cho Đa-vít,
    hay ném bỏ sự thành tín ta.
34 Ta sẽ không phá giao ước hoặc thay đổi điều ta đã hứa.
35 Ta đã hứa qua sự thánh khiết ta,
    ta sẽ không nói dối với Đa-vít,
36 Gia tộc người sẽ còn đời đời.
    Nước người sẽ bền mãi trước mặt ta như vầng thái dương.
37 Vương quốc người sẽ còn đời đời,
    như mặt trăng, một nhân chứng đáng tin trên bầu trời.” Xê-la

38 Nhưng nay Chúa đã từ chối và gạt bỏ vua Ngài bổ nhiệm.
    Chúa đã nổi giận cùng người.
39 Chúa đã bỏ giao ước với tôi tớ Ngài
    và ném mão triều người xuống đất.
40 Chúa đã phá sập các tường thành người;
    biến các thành kiên cố người ra nơi hoang tàn.
41 Người qua kẻ lại đều cướp đoạt người.
    Láng giềng người sỉ nhục người.
42 Chúa đã tiếp tay cho kẻ thù nghịch,
    khiến chúng đâm ra khoái trá.
43 Chúa khiến gươm giáo người ra vô dụng;
    Ngài không giúp đỡ người trong chiến trận.
44 Chúa khiến người bại trận,
    và dẹp quyền cai trị vinh hiển của người.
45 Chúa đã cắt ngắn đời người,
    bao phủ người bằng sỉ nhục. Xê-la

46 Lạy Chúa, tình trạng nầy kéo dài đến bao giờ?
    Chúa sẽ lánh mặt mãi sao?
    Cơn giận phừng của Chúa sẽ còn đến bao giờ?
47 Xin nhớ rằng đời tôi rất ngắn ngủi.
    Phải chăng Chúa muốn chúng tôi trở nên vô dụng [b]?
48 Có người nào sống mà không phải chết?
    Có ai thoát được sức mạnh của mồ mả đâu? Xê-la

49 Lạy Chúa, tình yêu xưa kia mà Ngài đã hứa?
    Ngài hứa với Đa-vít rằng Ngài sẽ thành tín với gia đình người.
50 Chúa ôi, xin nhớ rằng chúng sỉ nhục các tôi tớ Chúa;
    đừng quên rằng tôi đã gánh chịu sự sỉ nhục của các dân.
51 Chúa ôi, các kẻ thù nghịch đã chế giễu tôi;
    hễ gặp vua được Ngài chọn ở đâu thì chúng sỉ nhục đến đó.

52 Ca ngợi Chúa mãi mãi!
A-men! A-men!

Quyển 4

(Thi thiên 90-106)

Thượng Đế còn đời đời; còn con người chỉ sống tạm thời

Lời cầu nguyện của Mô-se, người của Thượng Đế.

90 Lạy Chúa, từ xưa đến nay Ngài là nguồn cứu giúp của chúng tôi.
Trước khi núi non sinh ra,
    trước khi Ngài sáng tạo trái đất và thế gian,
Chúa là Thượng Đế, Ngài có từ xưa và còn đời đời.

Ngài biến loài người trở thành bụi đất.
    Ngài phán, “Hỡi loài người,
    hãy trở về với cát bụi.”
Đối với Chúa, ngàn năm như một ngày qua đi,
    hay một vài giờ trong đêm.
Đời sống chúng tôi như giấc mộng,
    chấm dứt khi buổi sáng đến.
Chúng tôi giống như cỏ,
buổi sáng đâm chồi và mọc lên,
    nhưng đến chiều đã chết héo.
Chúng tôi bị cơn giận Ngài tiêu diệt;
    và kinh hoàng vì cơn thịnh nộ Ngài.
Chúa đặt những điều ác mà chúng tôi làm trước mặt Ngài;
    Ngài thấy rõ các tội lỗi kín giấu của chúng tôi.
Chuỗi ngày chúng tôi chấm dứt khi Ngài nổi giận.
    Các năm tháng chúng tôi kết thúc như tiếng thở dài.
10 Đời chúng tôi chỉ có bảy mươi tuổi
    còn nếu khỏe mạnh
    thì được tám mươi.
Nhưng các năm tháng ấy đều đầy lao khổ.
    Chúng qua mau, rồi chúng tôi biến mất.
11 Ai biết được sức mạnh của cơn giận Ngài?
    Sự kính sợ của chúng tôi đối với Ngài cũng lớn bằng cơn giận Ngài.
12 Xin dạy chúng tôi biết đời mình
    ngắn ngủi ra sao để chúng tôi thêm khôn ngoan.
13 Chúa ơi, bao giờ thì Chúa sẽ trở lại
    và tỏ lòng nhân từ cho các tôi tớ Ngài?
14 Mỗi sáng xin hãy đổ tình yêu Ngài trên chúng tôi.
    Thì trọn đời chúng tôi sẽ hát mừng.
15 Chúng tôi đã thấy những năm tháng khốn khó.
Bây giờ xin hãy ban sự vui mừng cho chúng tôi
    tương xứng với những khổ đau mà Ngài đặt trên chúng tôi.
16 Xin hãy cho các tôi tớ Ngài thấy những việc diệu kỳ của Ngài;
    hãy tỏ sự cao cả Ngài cho con cái họ.
17 Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi,
    xin ban ơn cho chúng tôi.
Xin giúp chúng tôi thành công trong mọi việc.
    Xin giúp chúng tôi thành công.

An ninh trong Chúa

91 Người nào ẩn náu trong Đấng Chí Cao
    sẽ được Đấng Toàn Năng bảo vệ.
Tôi thưa cùng Chúa rằng,
    “Ngài là nơi ẩn náu và thành lũy tôi.
Ngài là Thượng Đế tôi,
    nên tôi tin cậy nơi Ngài.”
Chúa sẽ giải cứu ngươi
    khỏi những hiểm nguy ngầm
    và những bệnh tật hiểm nghèo.
Ngài sẽ che phủ ngươi,
    Ngươi có thể ẩn náu dưới cánh Ngài.
Sự thành tín Ngài là cái thuẫn
    che chở ngươi.
Ngươi sẽ không sợ nguy hiểm ban đêm hay tên bay ban ngày.
Cũng không sợ dịch lệ trong bóng tối,
    hay bệnh tật tàn phá giữa trưa.
Dù bên cạnh ngươi có hàng ngàn người chết,
    bên phải ngươi hàng vạn người gục ngã,
    nhưng ngươi sẽ không bị tổn hại gì.
Ngươi chỉ cần nhìn và chứng kiến kẻ ác bị trừng phạt.
Chúa là nơi che chở ngươi;
    ngươi đã chọn Đấng Chí Cao làm nơi trú ẩn của mình.
10 Sẽ không có điều gì chẳng lành
    đến cho ngươi,
    cũng chẳng có thảm họa nào viếng lều ngươi.
11 Ngài đã sai thiên sứ chăm nom ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi.
12 Các thiên sứ sẽ giữ ngươi trong tay để chân ngươi khỏi vấp nhằm đá.
13 Ngươi sẽ đạp trên sư tử và rắn;
    ngươi sẽ dẫm lên sư tử hung hăng và rắn rít.
14 Chúa phán, “Ai yêu mến ta,
    ta sẽ giải cứu người ấy.
Ta sẽ bảo vệ những người biết ta.
15 Họ sẽ kêu xin ta, ta sẽ đáp lời.
Ta sẽ ở cùng họ trong cảnh nguy khốn;
Ta sẽ giải cứu họ và tôn trọng họ.
16 Ta sẽ cho họ mãn nguyện sống lâu,
    và họ sẽ thấy ta sự cứu rỗi của ta.”

Cảm tạ sự nhân từ Chúa

Bài ca dùng vào ngày Sa-bát.

92 Ca ngợi Chúa và chúc tụng Đấng Chí Cao là điều tốt.
Thuật lại sự yêu thương Chúa
    vào buổi sáng và sự thành tín Ngài vào buổi chiều là điều tốt.
Kèm theo đờn sắt mười dây
    và đờn cầm dìu dặt.
Lạy Chúa, những việc Ngài làm khiến tôi hớn hở;
    Tôi sẽ hát mừng về những việc tay Ngài làm.
Lạy Chúa, Ngài đã làm những việc lớn lao!
    Tư tưởng Ngài vô cùng sâu sắc!
Kẻ ngu si không thể hiểu biết,
    người điên dại không am tường.
Lũ gian ác mọc lên như cỏ.
    Bọn gian tà thịnh vượng,
    nhưng chúng sẽ bị tiêu diệt
    đời đời.
Nhưng, Chúa ôi, Ngài sẽ được tôn cao muôn đời.
Lạy Chúa, hãy nhìn các kẻ thù Ngài,
Chúng sẽ bị tiêu diệt.
    Tất cả các kẻ gian ác sẽ bị tản lạc.
10 Nhưng Ngài làm cho tôi mạnh như trâu [c].
    Ngài đổ dầu hảo hạng trên tôi.
11 Khi tôi nhìn thì tôi thấy kẻ thù tôi bị ngã xuống;
    tôi nghe tiếng kêu la của bọn gian ác nghịch tôi [d].

12 Nhưng người nhân đức
    sẽ lớn mạnh như cây chà là,
    sẽ cao vút như cây hương nam ở Li-băng.
13 Những người được trồng trong đền thờ Chúa,
    họ lớn mạnh trong sân Thượng Đế.
14 Dù đã già, họ vẫn sinh hoa quả;
    vẫn khoẻ mạnh xanh tươi.
15 Họ chứng tỏ rằng Chúa rất nhân lành.
    Ngài là Khối Đá tôi, luôn làm điều chân chính [e].

Sự oai nghi của Chúa

93 Chúa là vua, Ngài mặc sự uy nghi.
    Chúa mặc oai nghi và nai nịt bằng sức mạnh.
Thế gian đã được an bài,
    sẽ không lay chuyển.
Nước Ngài vững lập từ xưa;
    Ngài còn đời đời.
Chúa ơi, biển vang dội,
    các đại dương gầm thét,
biển cả đập sóng ầm ầm vào bờ.
Tiếng nước sóng vang rền;
    các luồng phong ba mãnh liệt,
    nhưng Chúa còn vĩ đại hơn.
Lạy Chúa, luật lệ Ngài vững bền mãi [f].
    Đền thờ Ngài muôn đời thánh khiết.

Thượng Đế sẽ báo trả kẻ thù nghịch Ngài

94 Lạy Chúa là Thượng Đế trừng phạt.
    Xin hãy đến trừng phạt chúng.
Hỡi quan án của thế gian,
    hãy đứng dậy và trừng phạt
    đích đáng bọn kiêu căng.
Bọn gian ác sẽ hớn hở đến bao giờ?
    Bao lâu nữa, thưa Chúa?
Chúng nói toàn lời ngạo mạn;
    Những kẻ gian ác huênh hoang chuyện chúng làm.
Chúa ôi, chúng chà đạp dân Ngài,
    làm khổ những kẻ thuộc về Ngài.
Chúng giết kẻ góa bụa,
    lữ khách tạm trú trong xứ chúng ta.
    Chúng tàn sát trẻ mồ côi.
Chúng ngạo nghễ bảo rằng, “Chúa không thấy đâu;
    Thượng Đế của Gia-cốp chẳng thèm biết đến.”

Nầy bọn ngu xuẩn, hãy chú ý,
    Còn kẻ điên cuồng, bao giờ các ngươi mới hiểu?
Đấng tạo ra lỗ tai mà không nghe được sao?
    Đấng tạo ra con mắt mà không thấy à?
10 Đấng sửa trị thế gian mà không trừng phạt các ngươi sao?
    Ngài là Đấng dạy khôn cho loài người.
11 Chúa biết ý nghĩ con người.
    Ngài biết tư tưởng họ chỉ như luồng gió thoảng [g].

12 Lạy Chúa, kẻ được Ngài sửa trị thật có phúc.
    Ngài dạy họ luật lệ Ngài.
13 Ngài cho họ nghỉ ngơi khỏi cảnh khốn khổ
    cho đến khi hố dành cho kẻ ác đã đào xong.
14 Chúa không lìa bỏ dân Ngài
    hay bỏ rơi những kẻ thuộc về Ngài.
15 Sự công chính sẽ trở lại, mang theo sự công bình,
    Những người ngay thẳng
    sẽ có mặt ở đó và nhìn thấy điều ấy.

16 Ai sẽ giúp tôi chống kẻ ác?
    Ai sẽ cùng tôi chống lại
    kẻ gian tà?
17 Nếu Chúa không giúp đỡ
    thì chắc trong phút chốc tôi đã mất mạng rồi.
18 Tôi thưa, “Tôi sắp ngã,” nhưng, Chúa ôi, tình yêu Ngài nâng đỡ tôi.
19 Tôi rất lo lắng nhưng Ngài an ủi tôi và khiến tôi vui vẻ.

20 Những kẻ lãnh đạo bất lương không thể kết thân với Chúa được.
    Chúng dùng luật lệ để gây khổ đau.
21 Chúng hợp lực chống lại người làm điều phải,
    và kết án tử hình kẻ vô tội.
22 Nhưng Chúa là Đấng bảo vệ tôi,
    Thượng Đế tôi là Khối Đá che chở tôi.
23 Chúa sẽ trừng phạt tội lỗi chúng
    và sẽ diệt chúng vì tội ác chúng làm.
Chúa là Thượng Đế chúng tôi sẽ tiêu diệt chúng.

Khuyên mọi người hãy ca ngợi và vâng phục Thượng Đế

95 Hãy đến hát mừng Chúa.
    Hãy lớn tiếng ca ngợi Khối Đá đã giải cứu chúng ta.
Hãy đến với Ngài bằng bài ca tạ ơn [h].
    Hãy hát tôn vinh Ngài,
vì Chúa là Thượng Đế cao cả,
    vua lớn trên tất cả các thần.
Mọi vực thẳm sâu nhất trên đất thuộc về Ngài,
    các núi cao tột đỉnh cũng là của Ngài.
Biển cả là của Chúa vì Ngài tạo nên chúng,
    Ngài tạo đất khô bằng chính tay mình.
Hãy đến cúi xuống thờ kính.
    Chúng ta hãy quì gối trước mặt Chúa
    là Đấng dựng nên chúng ta.
Ngài là Thượng Đế chúng ta,
    chúng ta là dân mà Ngài chăm sóc,
    là đàn chiên Ngài chăn giữ.

    Hôm nay hãy nghe tiếng Ngài phán dạy:
“Đừng ương ngạnh như tổ tiên các ngươi tại Mê-ri-ba,
    và như việc các ngươi làm tại Mát-xa [i] trong sa mạc,
Nơi mà tổ tiên các ngươi thách thức
    và thử ta mặc dù họ đã thấy mọi điều ta làm.
10 Ta nổi giận với họ trong bốn mươi năm.
Ta bảo, ‘Họ không trung thành cùng ta,
    chẳng hiểu đường lối ta.’
11 Ta nổi giận và thề quyết,
    ‘Họ sẽ không bao giờ được vào sự an nghỉ ta.’”

Ca ngợi vinh quang Chúa

96 Cả trái đất, hãy hát một bài ca mới [j] cho Chúa;
    hãy hát tôn vinh Ngài.
Hãy hát xướng cho Chúa và ca ngợi Ngài;
    mỗi ngày hãy thuật lại ơn giải cứu lớn lao của Ngài.
Hãy thuật cho các nước biết vinh quang Ngài,
    và muôn dân biết các điều diệu kỳ Ngài làm,
vì Chúa rất cao cả; Ngài đáng được ca ngợi luôn luôn.
    Ngài đáng được tôn trọng
    hơn tất cả các thần.
Các thần khác hoàn toàn vô ích,
    nhưng Chúa tạo lập các từng trời.
Chúa đầy vinh hiển và uy nghiêm;
    Ngài có năng lực và vẻ đẹp trong đền thánh Ngài.
Hỡi các nước trên đất, hãy ca ngợi Chúa;
    hãy ca ngợi sự vinh hiển và quyền năng Ngài.
Hãy ca ngợi xứng đáng với vinh hiển Ngài.
    Hãy mang của lễ đi vào sân của đền thờ Ngài.
Hãy thờ phụng Chúa vì Ngài là thánh [k].
    Mọi người trên đất, hãy run sợ trước mặt Ngài.
10 Hãy bảo cho các nước rằng,
    “Chúa là vua.”
    Trái đất đã được Chúa an bài,
    sẽ không lay chuyển.
Ngài sẽ phân xử các dân tộc một cách công minh.
11 Các từng trời hãy reo vui,
    đất hãy mừng rỡ;
    biển và mọi vật trong biển
    hãy la lớn lên.
12 Đồng ruộng và mọi vật trong đó hãy hớn hở,
    Mọi cây cối trong rừng
    hãy hát mừng
13 trước mặt Chúa vì Ngài đang ngự đến.
    Ngài đến để phân xử thế gian;
Ngài sẽ phân xử thế gian
    bằng sự công chính và các dân tộc bằng sự thành tín.

Bài hát ca ngợi quyền năng Chúa

97 Chúa là Vua. Cả trái đất hãy reo vui;
    các hải đảo hãy hớn hở.
Quanh Ngài có đám mây đen kịt.
    Nước Ngài được xây trên nền chính trực và công bằng.
Trước mặt Ngài có đám lửa
    thiêu đốt các thù nghịch Ngài bốn phía.
Lằn chớp Ngài chiếu sáng khắp thế gian;
    trái đất thấy liền run sợ.
Núi non tan chảy như sáp trước mặt Chúa,
    trước mặt Chúa của cả trái đất.
Các từng trời thuật lại lòng nhân từ Ngài
    mọi người thấy vinh hiển Ngài.

Những kẻ thờ phụng tượng chạm sẽ bị xấu hổ;
    họ khoe khoang về các thần
    vô dụng của mình.
Tất cả các thần đều thờ phụng Chúa [l].
Giê-ru-sa-lem nghe liền hớn hở,
    các thành Giu-đa vui mừng.
Chúng vui mừng vì sự phân xử của Ngài, thưa Chúa.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng Chí Cao trên khắp đất;
    Ngài được suy tôn trên tất cả các thần.
10 Những ai yêu mến Chúa ghét
    điều ác.
Chúa chăm nom những kẻ trung tín theo Ngài
    và giải thoát họ khỏi quyền lực của kẻ ác.
11 Ánh sáng chiếu trên những ai làm theo lẽ phải;
    sự vui mừng đi theo những kẻ lương thiện.
12 Hỡi những ai làm theo lẽ phải,
    hãy vui mừng trong Chúa.
Hãy ca ngợi danh Ngài.

Chúa quyền năng và công minh

Bài ca ngợi

98 Hãy hát một bài ca mới cho Chúa vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ.
    Tay phải mạnh mẽ và thánh [m] của Ngài giúp Ngài chiến thắng.
Chúa đã dùng quyền năng giải cứu;
    cho muôn dân thấy sự đắc thắng của Ngài dành cho dân tộc Ngài.
Ngài nhớ lại tình yêu và sự thành tín mà Ngài dành cho dân Ít-ra-en.
    Các nơi xa xăm của đất đã thấy quyền năng giải cứu của Thượng Đế.
Cả thế gian hãy reo hò vui vẻ cho Chúa;
    hãy trỗi tiếng ca và dạo nhạc.
Hãy dạo nhạc cho Chúa bằng đờn cầm,
    dùng đờn cầm và âm nhạc.
Hãy thổi kèn cùng tù và;
    hãy lớn tiếng hát mừng cho Chúa, là vua.
Biển và mọi vật trong biển hãy nổi tiếng ầm ầm lên,
    thế gian và mọi người đang sống trên đất hãy xướng hát lên.
Các sông hãy vỗ tay;
    các núi hãy cùng nhau hát mừng.
Tất cả hãy hát xướng trước mặt Chúa,
    vì Ngài đến để phân xử thế gian.
Ngài sẽ phân xử thế gian bằng sự công bằng;
Ngài sẽ phân xử các dân trong công chính.

Chúa, vua công bằng và thánh khiết

99 Chúa là Vua.
    Các dân hãy run sợ
    trước mặt Ngài.
Ngài ngự giữa các con thú bằng vàng có cánh.
    Đất hãy rung động.
Chúa của Giê-ru-sa-lem rất vĩ đại;
    Ngài được suy tôn trên khắp
    các dân.
Mọi người hãy ca ngợi danh Ngài;
    danh Ngài rất lớn,
Ngài là Đấng thánh và đáng sợ.
Vua có quyền năng, Ngài chuộng công lý.
Ngài thiết lập sự công bằng;
    Ngài thi hành điều công chính và phải lẽ giữa dân Gia-cốp.
Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta,
    hãy thờ phụng Ngài nơi bệ chân [n] Ngài.
Ngài là Đấng thánh.
Mô-se và A-rôn là thầy tế lễ
    của Ngài,
    Sa-mu-ên cũng kêu cầu cùng Ngài.
Họ kêu xin cùng Chúa,
    Ngài liền đáp lời họ.
Ngài phán với họ trong trụ mây.
    Họ giữ các qui tắc và luật lệ Ngài ban cho.
Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi,
    Ngài đáp lời họ.
Ngài cho họ thấy Ngài là Đấng hay tha thứ,
    nhưng sửa trị xứng đáng những hành vi sai lầm của họ.
Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta,
    hãy cúi xuống thờ phụng Ngài trên núi thánh Ngài,
    vì Chúa, Thượng Đế chúng ta là Đấng thánh.

Khuyên mọi người hãy ca ngợi Chúa

Bài ca cảm tạ.

100 Hỡi cả thế gian, hãy reo vang ca ngợi Chúa.
Hãy vui mừng phục vụ Chúa;
    hát xướng mà đến trước mặt Chúa.
Phải biết rằng Chúa là Thượng Đế.
Ngài tạo nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài.
    Chúng ta là dân Ngài, là bầy chiên Ngài chăn giữ.
Hãy hát cảm tạ mà đi vào thành thánh Ngài
    và bước vào sân đền Ngài bằng tiếng ca tôn vinh.
Hãy cảm tạ và ca ngợi danh Ngài.
CHÚA rất nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đời đời,
    sự thành tín Ngài kéo dài
    vô tận.

Lời cam kết sẽ trị nước công minh

Bài ca của Đa-vít.

101 Tôi sẽ hát ca về tình yêu và lòng công minh;
    Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài.
Tôi sẽ cố gắng sống cuộc đời
    toàn thiện.
Bao giờ thì Ngài sẽ đến cùng tôi [o]?
    Tôi sẽ sống cuộc đời toàn thiện trong nhà tôi.
Tôi sẽ không nhìn điều gì xấu xa [p].
    Những điều ấy sẽ không bám vào tôi.
Tôi không muốn liên can đến điều bất lương;
    Tôi không muốn dính vào việc ác.
Tôi sẽ ngăn chận kẻ nói lén người láng giềng mình,
    luôn cả những kẻ tự phụ và kiêu căng.

Tôi sẽ tìm người đáng tin trong xứ để sống chung với tôi.
    Chỉ những ai có đời sống thanh liêm
    mới được làm tôi tớ cho tôi thôi.
Kẻ bất lương không được ngụ trong nhà tôi;
    bọn nói dối phải dang xa khỏi tôi.
Mỗi sáng tôi sẽ tiêu diệt mọi kẻ ác trong xứ.
    Tôi sẽ trừ khử mọi kẻ gian tà khỏi thành của Chúa.

Lời kêu xin cứu giúp

Lời cầu nguyện của người đang khốn khổ khi người yếu đuối và bày tỏ lòng buồn bực cùng Chúa.

102 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu nguyện tôi;
    nguyện lời kêu xin của tôi lên đến Ngài.
Xin đừng lánh mặt trong khi tôi gặp khốn khó.
    Xin hãy lưu ý đến tôi.
Khi tôi kêu cầu, xin Ngài nghe tiếng tôi.
Đời tôi tan đi như mây khói,
    xương cốt tôi cháy như than đỏ.
Lòng tôi như cỏ bị cắt và phơi khô.
    Tôi quên cả ăn.
Vì quá sầu khổ,
    tôi chỉ còn da bọc xương.
Tôi như chim cú trong sa mạc,
    như chim cú sống trong các nơi đổ nát.
Tôi nằm thao thức.
    Tôi giống như chim lẻ bạn đậu trên mái nhà.
Suốt ngày kẻ thù sỉ nhục tôi;
    những kẻ chế giễu tôi nguyền rủa tôi [q].
Thức ăn của tôi là điều buồn bã,
    nước mắt là thức uống.
10 Trong cơn giận,
    Chúa đã túm bắt và ném tôi
    thật xa.

11 Những ngày tháng của tôi sắp qua đi như bóng câu;
    Tôi héo như cỏ.
12 Nhưng Chúa ôi, Ngài cai trị muôn đời,
    uy danh Ngài còn đời nầy qua đời kia.
13 Ngài sẽ đến và thương xót Giê-ru-sa-lem,
    đã đến lúc Ngài tỏ lòng nhân từ cùng thành ấy;
    nay chính là thời điểm đó.
14 Các kẻ tôi tớ Chúa yêu thích
    các tảng đá của thành ấy,
    cả đến bụi bặm của nó nữa.
15 Các dân sẽ kính sợ danh Chúa,
    các vua trên đất sẽ tôn trọng Ngài.
16 Chúa sẽ xây lại Giê-ru-sa-lem;
    người ta sẽ nhìn thấy vinh hiển Ngài ở đó.
17 Ngài sẽ đáp lời cầu nguyện
    của kẻ khốn cùng,
    và không từ chối lời khẩn cầu
    của họ.
18 Hãy viết những điều nầy để thế hệ mai sau ca ngợi Chúa.
19 Từ nơi thánh Ngài trên cao Chúa trông xuống;
    từ thiên đàng Ngài nhìn xuống đất.
20 Ngài nghe tiếng than vãn của các tù nhân,
    Ngài giải thoát những kẻ bị kêu án tử hình.
21 Để người ta sẽ rao truyền danh Chúa tại Giê-ru-sa-lem;
    lời ca ngợi Ngài sẽ được nghe
    ở đó.
22 Các dân sẽ cùng họp nhau,
    các nước sẽ phục vụ Ngài.

23 Chúa khiến tôi chán sống;
    Ngài đã cắt ngắn đời tôi.
24 Cho nên tôi thưa, “Lạy Chúa tôi ôi,
    xin đừng cất mạng tôi nửa chừng.
Các năm Chúa còn mãi mãi.
25 Thuở xưa Chúa dựng nên trái đất,
    bàn tay Ngài làm ra các bầu trời.
26 Trời đất sẽ tiêu tan,
    nhưng Chúa sẽ tồn tại mãi.
Trời đất sẽ mòn cũ như áo quần,
    Ngài sẽ thay và ném bỏ chúng đi như quần áo.
27 Nhưng Chúa không bao giờ thay đổi,
    các năm tháng CHÚA không hề chấm dứt.
28 Con cái chúng tôi sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài,
    và cháu chắt chúng tôi sẽ được bình an trước mặt Ngài.”

Ca ngợi Chúa của tình yêu

Bài ca của Đa-vít.

103 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa;
    toàn thân ta ơi, hãy ca tụng danh thánh Ngài.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa,
    đừng quên sự nhân từ Ngài.
Ngài tha thứ mọi tội lỗi tôi,
    chữa lành mọi bệnh tật tôi.
Ngài cứu tôi khỏi mồ mả,
    Ngài lấy tình yêu và lòng thương xót làm mão triều đội cho tôi.
Ngài ban cho tôi mọi điều tốt lành,
    và làm tôi trẻ lại như chim phượng hoàng.
Chúa làm điều phải lẽ và công bằng cho những kẻ bị ức hiếp.
Ngài cho Mô-se biết đường lối Ngài
    và cho Ít-ra-en biết việc làm của Ngài.
Chúa đầy lòng thương xót
    và nhân từ.
    Ngài chậm giận, giàu tình yêu.
Không phải lúc nào Ngài cũng luôn luôn bắt tội chúng ta,
    Ngài không căm giận mãi.
10 Chúa không trừng phạt chúng tôi xứng với tội lỗi chúng tôi;
    không báo trả chúng tôi đáng với sự gian ác chúng tôi.
11 Hễ các từng trời cao hơn đất bao nhiêu,
    thì tình yêu Ngài dành cho kẻ kính sợ Ngài cũng lớn bấy nhiêu.
12 Phương đông xa phương tây bao nhiêu,
    thì Ngài cũng mang tội lỗi xa khỏi chúng tôi bấy nhiêu.
13 Chúa tỏ lòng nhân từ đối cùng những ai kính sợ Ngài,
    như cha tỏ lòng nhân từ
    cùng con cái mình.
14 Ngài biết chúng tôi được tạo nên như thế nào;
    Ngài nhớ rằng chúng tôi chỉ là bụi đất.
15 Đời người giống như cỏ;
    Nó trổ hoa trong đồng.
16 Gió thổi, hoa bay mất,
    không còn để lại dấu tích.
17 Nhưng tình yêu Chúa dành cho những kẻ kính sợ Ngài còn đời đời,
    và lòng nhân từ Ngài kéo dài đến con cháu họ
18 là những người giữ giao ước Ngài
    và vâng theo mệnh lệnh Ngài.
19 Chúa đặt ngôi Ngài trên trời,
    nước Ngài quản trị mọi loài.
20 Hỡi các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài.
Các ngươi là những chiến sĩ
    bạo dạn,
    làm theo lời phán và vâng theo mệnh lệnh Ngài.
21 Hỡi các đoàn quân của Chúa [r] là các tôi tớ Chúa
    làm theo ý muốn Chúa,
    hãy ca ngợi Ngài;
Các ngươi là tôi tớ Chúa,
    hãy làm theo ý muốn Ngài.
22 Mọi vật Chúa dựng nên hãy ca ngợi Ngài
    bất cứ chỗ nào Ngài cai trị.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.

Ca ngợi Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa

104 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.
    Lạy Chúa là Thượng Đế, Ngài rất cao cả.
Ngài mặc vinh hiển và oai nghi;
áo Ngài là ánh sáng.
    Ngài giăng bầu trời ra như cái lều.
Xây phòng Ngài trên các đám mây [s].
    Ngài dùng mây làm xe,
    và lượn trên cánh gió.
Ngài dùng gió làm sứ giả mình,
    ngọn lửa làm tôi tớ mình.
Chúa xây trái đất trên nền nó,
    nó sẽ không bị di động.
Ngài phủ trái đất như chiếc áo;
    nước dâng ngập các ngọn núi cao.
Nhưng khi Chúa ra lệnh,
    nó liền hạ xuống.
    Khi Ngài gầm thét, nó vội vàng trôi mất.
Nước chảy qua núi non; rồi xuống thung lũng,
    đến nơi Ngài định cho nó.
Ngài đặt ranh giới biển, không cho nó vượt qua,
    để nước không còn làm ngập lụt đất nữa.

10 Ngài khiến suối đổ vào các sông ngòi;
    chúng chảy giữa các núi non.
11 Suối cấp thức uống cho muông thú;
    các lừa hoang đến đó uống nước.
12 Chim muông làm tổ gần nước;
    hót thánh thót giữa các cành cây.
13 Từ trời Ngài tưới các núi non.
    Đất đầy dẫy những thành quả của công trình Ngài.
14 Ngài khiến cỏ mọc lên cho súc vật,
    và rau cỏ cho con người.
Ngài khiến đất sinh ra thực phẩm.
15 Ngài cho chúng tôi rượu ngon khiến chúng tôi vui vẻ,
    và dầu ô liu làm mặt chúng tôi sáng rỡ.
Ngài ban bánh mì để chúng tôi thêm sức.

16 Cây cối của Chúa được tưới đầy đủ;
    đó là các cây hương nam
    của Li-băng mà Ngài đã trồng.
17 Chim trời làm tổ trên đó;
    con cò xây tổ trong các nhành thông.
18 Núi cao là lãnh thổ của dê rừng.
    Các khe đá là nơi trú ẩn của con rái đồng [t].

19 Ngài dùng mặt trăng để định ngày tháng,
    mặt trời luôn biết giờ lặn.
20 Chúa khiến nó tối lại, thì hóa ra đêm.
    Bấy giờ các thú rừng đi ra.
21 Sư tử gầm thét khi kiếm mồi.
    Chúng trông đợi Thượng Đế ban thức ăn.
22 Khi mặt trời mọc lên,
    chúng trở về hang động để nghỉ ngơi.
23 Rồi con người đi ra làm việc, mãi đến chiều tà.

24 Lạy Chúa, Ngài đã làm thật nhiều điều;
    nhờ sự khôn ngoan Ngài dựng nên tất cả mọi thứ.
Đất đầy dẫy các vật mà Ngài
    tạo nên.
25 Hãy nhìn đại dương to rộng,
    cùng vô số sinh vật lớn nhỏ sống trong đó.
26 Tàu bè đi lại trên biển,
    cũng có Lê-vi-a-than [u] mà Ngài khiến nô đùa trong đó.

27 Tất cả đều trông đợi Ngài ban thức ăn theo giờ.
28 Khi Ngài ban thức ăn thì chúng nhận lấy.
    Khi Ngài xoè tay ra, chúng được no nê thức ăn ngon.
29 Khi Ngài quay đi, chúng đâm ra hoảng sợ.
Ngài lấy hơi thở [v] chúng,
    chúng dãy chết và trở về bụi đất.
30 Khi Ngài hà hơi sống trên chúng,
    chúng được dựng nên,
Ngài làm đất trở nên mới.
31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn mãi mãi.
Nguyện Chúa vui hưởng điều Ngài sáng tạo.
32 Ngài nhìn đất, đất liền rung chuyển,
Ngài sờ vào núi, núi liền bốc khói.

33 Tôi sẽ hát xướng cho Chúa suốt đời tôi;
Tôi còn sống bao lâu,
    thì tôi sẽ ca ngợi Thượng Đế tôi bấy lâu.
34 Nguyện tư tưởng tôi đẹp lòng Ngài;
    Tôi vui mừng trong Chúa.
35 Nguyện tội nhân bị diệt khỏi đất,
    nguyện kẻ ác không còn tồn tại.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.

Hãy ca ngợi Chúa.

Tình yêu Thượng Đế dành cho Ít-ra-en

105 Hãy cảm tạ Chúa và rao truyền danh Ngài.
    Hãy thuật cho các quốc gia những việc Ngài làm.
Hãy hát xướng; hãy ca ngợi Ngài.
    Hãy thuật lại các việc diệu kỳ của Ngài.
Hãy vui mừng trong sự kiêu hãnh;
    những người tìm kiếm Chúa hãy vui mừng.
Hãy tìm kiếm nơi Chúa và sức mạnh của Ngài;
    hãy luôn luôn đến cùng Ngài để xin cứu giúp.
Hãy nhớ lại các việc diệu kỳ Ngài đã làm;
    những việc lạ lùng và các phán quyết của miệng Ngài.
Các ngươi là dòng dõi của tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham,
    con cháu Gia-cốp, dân được
    lựa chọn của Ngài.
Chúa là Thượng Đế chúng ta.
    Ngài cai trị toàn thế giới.
Ngài sẽ mãi mãi tôn trọng giao ước Ngài,
    và luôn luôn giữ lời hứa.
Ngài giữ giao ước đã lập với Áp-ra-ham
    và lời hứa Ngài cùng Y-sác.
10 Ngài xác nhận giao ước cho Gia-cốp;
    lập thành giao ước với Ít-ra-en cho đến đời đời.
11 Chúa phán, “Ta sẽ cho ngươi đất Ca-na-an,
    xứ đó sẽ thuộc về các ngươi.”
12 Khi Ngài tuyên bố những điều ấy thì dân cư của Ngài hãy còn ít oi.
    Họ là kiều dân trong xứ.
13 Họ lưu lạc từ nước nầy sang nước khác,
    từ vương quốc nầy đến vương quốc nọ.
14 Tuy nhiên Chúa không cho ai
    ức hiếp họ;
    Ngài cảnh cáo các vua không được làm hại họ.
15 Ngài bảo, “Chớ có đụng đến dân được chọn lựa của ta,
    không được làm hại các nhà tiên tri ta.”
16 Thượng Đế đưa thời kỳ đói kém đến trong xứ,
    Ngài tiêu hủy mọi nguồn thực phẩm.
17 Sau đó Ngài sai một người đi trước họ tức Giô-xép, bị bán làm nô lệ.
18 Chúng xiềng chân người
    và đeo gông vào cổ người.
19 Cho đến thời kỳ mà người đã tiên đoán xảy đến,
    lời của Chúa chứng tỏ Giô-xép nói đúng.
20 Vua Ai-cập cho gọi Giô-xép đến và thả người ra;
    nhà lãnh đạo quần chúng phóng thích người.
21 Vua đặt người cai quản cả cung vua;
    Giô-xép quản trị mọi tài sản vua.
22 Người có quyền sai khiến các hoàng thân.
    Người dạy khôn cho các bậc lão thành.
23 Sau đó cha người là Ít-ra-en đến Ai-cập;
    Gia-cốp trú ngụ tại xứ Cham. [w]
24 Chúa khiến dân Ngài sinh sôi
    nẩy nở,
    làm cho họ lớn mạnh hơn kẻ thù họ.
25 Ngài làm cho người Ai-cập ghét dân Ngài
    để họ nghịch các tôi tớ Ngài.
26 Rồi Ngài sai tôi tớ Ngài là Mô-se,
    và A-rôn là người Ngài đã chọn.
27 Họ làm các dấu lạ giữa người Ai-cập
    và thực hiện các phép lạ trong xứ Cham.
28 Chúa sai bóng tối đến khiến xứ
    tối mịt,
    nhưng người Ai-cập chống nghịch lời Ngài.
29 Chúa liền biến nước ra máu khiến cá đều chết.
30 Rồi xứ bị ếch nhái tràn ngập,
    thậm chí tràn vào phòng ngủ của các quan cai trị.
31 Chúa phán thì ruồi nhặng bay đến,
    muỗi mòng tràn lan khắp xứ.
32 Ngài khiến mưa đá rơi xuống thay vì mưa
    và sai sấm vang chớp loè khắp xứ.
33 Ngài tàn phá các dây nho và cây vả họ,
    Ngài tiêu diệt cây cối khắp xứ.
34 Ngài phán thì cào cào liền bay tới ào ạt nhiều vô kể.
35 Chúng ăn sạch các cây xanh
    trong xứ
    cùng những gì do đất họ sinh ra.
36 Chúa cũng giết các con trai đầu lòng trong xứ,
    tức con trưởng nam của mỗi gia đình.
37 Sau đó Ngài dẫn dân Ngài ra khỏi Ai-cập,
    họ mang theo bạc và vàng,
    không một ai trong vòng họ vấp té hay bị bỏ lại.
38 Dân Ai-cập quá mừng khi dân sự Ngài ra đi,
    vì người Ai-cập rất sợ họ.
39 Chúa dùng đám mây làm bóng mát cho họ,
    và soi sáng bóng đêm bằng ánh lửa.
40 Họ xin, Ngài liền sai chim cút đến
    và cho họ ăn no nê bánh từ trời.
41 Chúa chẻ tảng đá, nước liền phun ra;
    chảy như sông giữa sa mạc.

42 Chúa nhớ lại lời hứa thánh mà Ngài lập với Áp-ra-ham tôi tớ Ngài.
43 Thượng Đế mang dân Ngài ra trong niềm hân hoan,
    là dân chọn lựa của Ngài trong tiếng ca hát.
44 Ngài cấp cho họ đất đai của các dân tộc khác,
    họ nhận lãnh công lao của kẻ khác.
45 Ngài làm như thế để họ giữ mệnh lệnh Ngài
    và vâng theo lời dạy của Ngài.

Hãy ca ngợi Chúa!

Dân Ít-ra-en không tin cậy Thượng Đế

106 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy cảm tạ Chúa vì lòng nhân từ của Ngài.
    Tình yêu Ngài còn mãi mãi.
Không ai có thể thuật hết
    các việc quyền năng Chúa
    đã làm.
    Không ai có thể hát hết lời ca ngợi Ngài.
Phúc cho ai làm điều công chính,
    và kẻ luôn làm điều phải.

Chúa ôi, xin nhớ đến tôi khi
    tỏ lòng nhân từ cùng dân tộc Ngài;
    giúp tôi khi Ngài cứu họ.
Xin hãy cho tôi thấy sự sung túc của dân Ngài lựa chọn.
Xin cho tôi cùng chung vui với dân Ngài;
    cùng nhập chung với dân Chúa mà ca ngợi Ngài.

Chúng tôi đã phạm tội giống như tổ tiên chúng tôi trước kia.
    Chúng tôi làm quấy, chúng tôi gian ác.
Trong xứ Ai-cập, tổ tiên chúng tôi không hiểu được các phép lạ Chúa.
Họ chẳng ghi nhớ lòng yêu thương bao la của Ngài,
    trái lại họ chống nghịch Ngài tại Biển Sậy [x].

Nhưng vì danh Ngài, Chúa đã cứu họ,
    để tỏ ra quyền năng lớn lao
    của Ngài.
Ngài ra lệnh cho biển Sậy,
    nó liền cạn khô.
    Ngài dẫn họ qua biển sâu như thể bước đi trong sa mạc.
10 Ngài cứu họ khỏi những kẻ ghét họ,
    giải thoát họ khỏi tay kẻ thù,
11 Ngài khiến nước phủ ngập lên
    kẻ thù họ.
    Không một ai thoát chết.

12 Bấy giờ họ tin điều Chúa phán,
    và ca ngợi Ngài.
13 Nhưng rồi họ vội vàng quên điều Ngài làm;
    không chờ đợi huấn lệnh Chúa.
14 Họ thèm muốn đang khi ở trong sa mạc,
    thách thức Ngài tại đó.
15 Ngài cho họ điều họ ao ước,
    nhưng sai dịch lệ đến với họ.
16 Dân chúng trong doanh trại đố kỵ với Mô-se và A-rôn,
    thầy tế lễ thánh của Chúa.
17 Đất liền nứt ra nuốt Đa-than
    và chôn sống bè lũ A-bi-ram.
18 Một ngọn lửa thiêu đốt những kẻ đi theo chúng,
    hỏa thiêu bọn gian ác.
19 Dân chúng tạc một bò con vàng
    tại núi Hô-rếp,
    bái lạy một tượng đúc,
20 Họ đánh đổi Thượng Đế vinh hiển của mình
    lấy hình tượng con bò ăn cỏ.
21 Họ quên Thượng Đế là Đấng
    đã giải cứu và làm những phép lạ trong xứ Cham [y],
22 Đấng đã làm nhiều phép lạ ở Ai-cập
    và những việc diệu kỳ nơi biển Sậy.

23 Nên Thượng Đế nhất quyết tiêu diệt họ.
    Nhưng Mô-se, người được Chúa chọn,
    đứng trước mặt Ngài,
    cản không để cơn thịnh nộ Ngài tiêu diệt họ.

24 Họ không chịu đi vào xứ Ca-na-an đẹp đẽ;
    không tin lời hứa của Ngài.
25 Trong lều trại họ oán trách và không vâng lời Chúa.
26 Nên Ngài thề là họ sẽ chết trong sa mạc.
27 Ngài phán rằng con cháu họ sẽ bị các dân khác đánh bại,
    và rằng họ sẽ bị tản lạc trong các nước khác.

28 Họ họp nhau bái lạy thần Ba-anh Phê-ô,
    và ăn đồ đã được cúng cho các người chết [z].
29 Chúa nổi giận cùng họ,
    nên nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo.
30 Nhưng Phi-nê-a đứng lên
    và can thiệp [aa].
31 Thượng Đế xem đó là việc làm phải lẽ,
    sẽ được mãi mãi ghi nhớ.

32 Họ cũng chọc Ngài giận ở các suối nước Mê-ri-ba,
    và vì họ mà Mô-se lãnh hậu quả không hay.
33 Dân chúng phản nghịch lại Thánh Linh của Chúa,
    khiến Mô-se nổi giận.

34 Dân chúng cũng không tiêu diệt các dân khác như Chúa dặn bảo.
35 Nhưng lại sống chung chạ với chúng
    và học đòi theo phong tục của các dân ấy.
36 Thần tượng của các dân khác
    trở thành cạm bẫy cho họ.
37 Đến nỗi họ giết con trai con gái mình làm của lễ hi sinh cho các ác quỉ.
38 Họ giết trẻ con vô tội,
    tức chính con trai con gái mình
    để làm sinh tế cho các thần tượng xứ Ca-na-an.
Cho nên đất trở nên dơ bẩn vì huyết chúng.
39 Họ tự làm cho mình dơ bẩn vì các hành động của họ;
    Họ không trung thành bằng các hành động của họ.
40 Nên Ngài tức giận và chán ngán con dân Ngài.
41 Ngài trao họ cho các quốc gia khác,
    cho phép kẻ thù cai trị họ.
42 Kẻ thù áp bức và thống trị họ.
43 Nhiều lần Chúa giải cứu dân Ngài,
    nhưng họ tiếp tục phản nghịch Ngài.
Càng suy sụp trong tội lỗi.
44 Nhưng khi nghe tiếng kêu than,
    Ngài thấy cảnh khốn đốn họ.
45 Ngài nhớ lại giao ước với họ
    và an ủi họ do lòng yêu thương lớn lao của Ngài.
46 Ngài khiến các kẻ áp bức họ cũng thương hại họ.
47 Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi,
    xin hãy cứu và mang chúng tôi trở về từ các nước khác.
    Chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài và vui mừng ca ngợi Ngài.
48 Hãy ca ngợi Chúa, là Thượng Đế của Ít-ra-en.
    Đấng sẽ còn mãi mãi.

Mọi người hãy nói, “A-men!”
Hãy ca ngợi CHÚA!

Quyển 5

(Thi thiên 107-150)

Thượng Đế giải cứu khỏi nhiều gian nguy

107 Cảm tạ Chúa vì Ngài nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đời đời.
Hỡi những ai được Chúa cứu
    hãy ca ngợi như thế.
    Ngài đã giải cứu họ khỏi tay kẻ thù
và đã tập họp họ lại từ các quốc gia,
    từ Đông đến Tây, từ Bắc đến Nam [ab].

Một số đã lưu lạc trong sa mạc,
    không tìm được thành nào để sống.
Họ bị đói khát, chán nản cùng cực.
Trong cơn khốn đốn họ kêu la cùng Thượng Đế,
    thì Ngài giải thoát họ khỏi mọi cảnh khốn khổ.
Ngài dẫn họ thẳng đến thành
    có thể ở được.
Họ phải cảm tạ Chúa vì tình yêu
    và những phép lạ Ngài làm cho dân Ngài.
Ngài cho họ đã khát và no đủ.

10 Một số ngồi trong cảnh ảm đạm tăm tối;
    họ đang đau khổ trong xiềng xích.
11 Họ đã chống báng lời phán của Thượng Đế,
    không thèm nghe lời khuyên của Đấng Chí Cao.
12 Do đó Ngài bắt họ lao khổ để hạ tính tự phụ của họ,
    không ai giúp đỡ họ.
13 Trong cơn khốn đốn, họ kêu xin cùng Chúa,
    Ngài liền giải cứu họ ra khỏi cảnh hiểm nghèo.
14 Ngài mang họ ra khỏi cảnh ảm đạm đen tối,
    bẻ xiềng xích họ.
15 Họ phải cảm tạ Chúa vì lòng yêu thương
    và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài.
16 Ngài phá các cổng đồng và cắt song sắt.

17 Một số ngu dại chống nghịch Thượng Đế,
    mang lấy khốn khổ do hậu quả của việc ác mình làm.
18 Họ không thiết ăn uống đến nỗi suýt chết.
19 Trong cơn khốn đốn họ kêu la cùng Chúa,
    Ngài liền giải cứu họ ra khỏi cảnh khốn khổ.
20 Ngài ra huấn lệnh và chữa lành,
    cứu họ khỏi chết.
21 Họ phải cảm tạ Chúa vì tình yêu
    và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài.
22 Họ phải dâng của lễ cảm tạ Ngài.
    Hớn hở thuật lại những việc tay Chúa làm.

23 Có kẻ dùng tàu biển buôn bán trên các đại dương.
24 Họ thấy những điều Chúa có thể làm,
    những phép lạ Ngài thực hiện trong biển sâu.
25 Chúa phán thì giông tố nổi lên,
    thổi sóng cuồn cuộn.
26 Tàu bè bị chòng chành,
    khi trồi lên cao chót vót,
    lúc sụp xuống nơi thẳm sâu.
    Trận bão dữ dội đến nỗi họ hết hi vọng.
27 Họ đi lảo đảo và ngã té như người say.
    Họ lúng túng không biết làm sao.
28 Trong cơn khốn khổ họ kêu la cùng Chúa,
    Ngài liền giải cứu họ khỏi nỗi hiểm nguy.
29 Ngài khiến bão lặng
    và dẹp yên các lượn sóng.
30 Họ vui mừng vì bão yên.
    Thượng Đế hướng dẫn họ đến bến mà họ muốn đi.
31 Họ phải cảm tạ Chúa về tình yêu
    và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài.
32 Họ phải ca ngợi sự cao cả Ngài trong hội các dân;
    họ phải ca ngợi Ngài trong buổi hội các bô lão.

33 Ngài biến sông ngòi ra sa mạc,
    và suối nước ra đất khô.
34 Ngài biến đất màu mỡ ra đất mặn
    vì dân cư sống ở đó gian ác.
35 Chúa biến sa mạc ra ao hồ,
    và đất khô ra suối nước.
36 Ngài cho kẻ đói khổ lập nghiệp
    tại đó để họ xây thành định cư.
37 Họ gieo giống trong đồng ruộng và vườn nho,
    họ được trúng mùa.
38 Thượng Đế ban phước cho họ,
    dân số họ gia tăng.
    Gia súc cũng không sụt giảm.
39 Nhưng vì thiên tai, khốn khổ và buồn thảm,
    dân số gia đình họ sút giảm và suy yếu.
40 Chúa cho thấy Ngài bất bình với các nhà lãnh đạo họ
    cho nên Ngài bắt họ lưu lạc trong sa mạc không lối đi.
41 Nhưng Ngài mang kẻ nghèo khó ra khỏi cảnh khổ,
    khiến gia đình họ gia tăng như bầy cừu.
42 Những người ngay thẳng vui vẻ khi nhìn thấy điều nầy,
    nhưng kẻ ác làm thinh.
43 Kẻ nào khôn ngoan sẽ ghi nhớ việc đó
    và suy gẫm về tình yêu của Chúa.

Lời cầu xin được chiến thắng

Bài ca ngợi của Đa-vít.

108 Lạy Thượng Đế, lòng tôi ổn định.
    Linh hồn tôi sẽ hát ca ngợi Chúa.
Hỡi đờn sắt và đờn cầm, hãy tỉnh giấc!
    Tôi sẽ đánh thức bình minh dậy.
Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân;
    tôn vinh Ngài trong các nước.
Tình yêu lớn lao của Ngài vượt trên các từng trời,
    chân lý Ngài cao vút đến mây xanh.
Lạy Thượng Đế, nguyền Ngài được tôn cao hơn các từng trời.
    Nguyện vinh quang Ngài lan tràn khắp đất.
Xin hãy trả lời chúng tôi qua quyền năng Ngài,
    để dân mà Chúa yêu được giải cứu.

Từ đền thánh Ngài Thượng Đế phán,
“Sau khi thắng, ta sẽ chia Sê-chem
    và đo thung lũng Xu-cốt.
Ghi-lê-át và Ma-na-xe đều thuộc về ta.
    Ép-ra-im là mũ sắt ta.
    Giu-đa cầm cây trượng vàng ta.
Mô-áp là chậu ta rửa ráy.
Ta ném giày dép ta ở Ê-đôm [ac].
    Ta reo hò đắc thắng trên Phi-li-tin.”

10 Ai sẽ đưa tôi đến thành có vách kiên cố?
    Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm?
11 Chính là Thượng Đế, Đấng đã từ bỏ chúng tôi;
    Ngài không còn ra trận với đạo quân chúng tôi nữa.
12 Xin hãy giúp chúng tôi đánh quân thù.
    Sự giúp đỡ loài người thật vô dụng,
13 nhưng nhờ Thượng Đế giúp,
    chúng tôi có thể chiến thắng quân thù.
Ngài sẽ đánh bại kẻ thù chúng tôi.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

© 2010 Bible League International