Book of Common Prayer
Khi Người Phi-li-tin Bắt Ông Tại Thành Gát
56 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi. Vì người ta chà đạp[a] tôi,
Hằng ngày kẻ thù[b] áp bức tôi.
2 Hằng ngày kẻ thù chà đạp tôi,
Vì nhiều người kiêu căng chiến đấu chống tôi.[c]
3 Trong ngày sợ hãi,
Tôi sẽ tin cậy Ngài.
4 Nhờ Đức Chúa Trời[d] tôi sẽ ca ngợi Ngài.
Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi,
Người phàm sẽ làm chi tôi?
5 Hằng ngày chúng xuyên tạc các lời tôi nói.[e]
Tư tưởng gian ác của chúng toan hại tôi.
6 Chúng âm mưu[f] phục kích,[g]
Chúng theo dõi các bước chân tôi,
Chờ hại mạng sống tôi.
7 Gian ác như thế mà chúng sẽ thoát khỏi sao?
Lạy Đức Chúa Trời, trong cơn thịnh nộ Ngài, hãy đánh đổ các dân.
8 Ngài ghi chép các đoạn đường đi lại[h] của tôi.
Xin Ngài đựng nước mắt tôi trong bình của Chúa.
Nước mắt tôi không được ghi trong sách Ngài sao?
9 Ngày nào tôi cầu khẩn thì các kẻ thù tôi sẽ thối lui,
Vì tôi biết điều này:
Đức Chúa Trời ở cùng tôi.
10 Nhờ Đức Chúa Trời, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài,
Nhờ CHÚA, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài.
11 Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi.
Loài người sẽ làm chi tôi?
12 Lạy Đức Chúa Trời, tôi vẫn giữ lời khấn nguyện cùng Ngài.[i]
Tôi sẽ dâng tế lễ tạ ơn Ngài.
13 Vì Ngài đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết,
Không để chân tôi vấp ngã.
Tôi sẽ bước đi trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời
Trong ánh sáng của sự sống.[j]
Khi Người Trốn Trong Hang Đá Thoát Khỏi Sau-lơ
57 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, xin thương xót tôi,
Vì linh hồn tôi trú ẩn nơi Ngài.
Tôi sẽ náu mình dưới bóng cánh Ngài
Cho đến khi cơn hủy diệt đã qua.
2 Tôi sẽ cầu khẩn Đức Chúa Trời Chí Cao,
Là Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành cho tôi.
3 Từ trời Ngài sẽ ban ơn[k] cứu rỗi tôi;
Ngài quở trách[l] kẻ chà đạp tôi. Sê-la
Đức Chúa Trời sẽ ban tình yêu thương và sự thành tín Ngài.
4 Linh Hồn tôi ở giữa những sư tử,
Tôi nằm giữa loài thú ăn thịt[m] người.
Răng chúng nó như giáo và tên,
Lưỡi chúng nó như gươm sắc bén.
5 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
6 Chúng nó gài lưới cho chân tôi,
Linh hồn tôi nao sờn.[n]
Chúng đào hố trước mặt tôi
Nhưng chính chúng nó lại sa xuống đó. Sê-la
7 Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định,
Lòng tôi kiên định.
Tôi sẽ hát và ca ngợi Ngài.
8 Hỡi vinh quang Ta,[o] hãy tỉnh thức,
Hỡi đàn hạc, đàn lia hãy tỉnh thức,
Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy.
9 Lạy Chúa, tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân,
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước.
10 Vì tình yêu thương Ngài lớn hơn các tầng trời,
Sự thành tín Ngài cao vút tận các tầng mây.
11 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
Lời Cầu Nguyện Xin Trừng Phạt Kẻ Ác
58 Hỡi các lãnh chúa quyền thế, khi im lặng các người thật sự nói công bình sao?
Các ngươi có phán xét loài người một cách ngay thẳng không?
2 Không, các người phạm các điều ác trong lòng,
Tay các người thi hành[p] bạo lực trên đất.
3 Kẻ ác lầm lạc từ trong lòng mẹ,
Chúng sai quấy, nói dối từ lúc mới sanh.
4 Nọc độc chúng nó như nọc độc loài rắn,
Chúng như rắn hổ mang bị điếc, bị bịt tai lại,
5 Không nghe tiếng người dụ rắn
Hay lời thần chú của thầy bùa cao tay.
6 Lạy Đức Chúa Trời, xin đập bể răng trong miệng chúng nó,
Lạy CHÚA, xin bẻ gẫy nanh sư tử tơ.
7 Nguyện chúng nó bị đùa đi như nước chảy,
Khi nó nạp tên nhắm bắn thì tên bị chặt đứt.[q]
8 Nguyện chúng nó như con ốc sên tiêu tan khi bò đi,
Như thai của người đàn bà bị sẩy, không hề thấy mặt trời.
9 Trước khi nơi các ngươi nhận thấy gai góc,
Nguyện Ngài quét sạch chúng nó đi, dù còn xanh hay cháy.[r]
10 Người công chính sẽ vui mừng khi thấy sự báo thù,
Người sẽ rửa chân mình trong máu kẻ ác.
11 Người ta sẽ nói rằng:
Chắc hẳn người công chính sẽ được thưởng,
Chắc hẳn là có Đức Chúa Trời, Đấng phán xét trên đất.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng
64 Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe tiếng tôi than thở,
Xin bảo vệ tôi[a] khỏi khiếp sợ kẻ thù.
2 Xin Ngài giấu tôi khỏi âm mưu của kẻ ác,
Khỏi đám đông làm điều dữ.
3 Chúng mài lưỡi mình như gươm,
Nhắm bắn mũi tên, tức là lời độc ác.
4 Từ nơi ẩn núp, chúng bắn người vô tội,
Chúng bắn thình lình và không sợ hãi gì.
5 Chúng khuyến khích nhau trong mưu ác mình,
Bàn tính để gài bẫy bí mật,
Chúng tự nghĩ ai sẽ thấy chúng ta?
6 Chúng tìm kiếm mưu ác, và nghĩ:
Chúng ta đã lập xong mưu hay.
Tâm trí và lòng dạ con người thật nham hiểm.
7 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ bắn tên vào chúng nó,
Thình lình chúng nó bị thương.
8 Ngài sẽ hủy diệt chúng vì lưỡi chúng nó nghịch lại chúng nó.[b]
Tất cả những ai thấy chúng đều lắc đầu.
9 Và tất cả mọi người đều sẽ sợ,
Chúng sẽ rao truyền các công việc của Đức Chúa Trời
Và suy nghĩ về điều Ngài đã làm.
10 Người công chính sẽ vui mừng trong CHÚA
Và trú ẩn nơi Ngài.[c]
Tất cả những người có lòng ngay thẳng sẽ ca ngợi Ngài.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng, Bài Hát
65 Lạy Đức Chúa Trời tại Si-ôn,
Thật đáng[d] ca ngợi Ngài và giữ trọn lời hứa nguyện với Ngài.
2 Lạy[e] Đấng nghe lời cầu nguyện,
Cả nhân loại[f] sẽ đến cùng Ngài.
3 Về vấn đề gian ác, các sự vi phạm đã thắng hơn tôi,
Nhưng Ngài tha thứ cho.
4 Phước cho người Ngài đã chọn
Và khiến đến gần để ở nơi hành lang Ngài.
Chúng tôi sẽ thỏa nguyện với phúc lành của nhà Ngài,
Tức là đền thánh Ngài.
5 Lạy Đức Chúa Trời cứu rỗi của chúng tôi,
Ngài sẽ đáp lời chúng tôi bằng sự công chính qua những việc diệu kỳ.[g]
Ngài là sự tin cậy của mọi người ở tận cùng trái đất
Cũng như ở vùng biển cả xa xăm.
6 Ngài dùng quyền năng thiết lập núi non,
Vì Ngài nai nịt bằng sức mạnh.
7 Ngài dẹp yên biển động,
Sóng gió ầm ầm
Cùng các dân xáo động.
8 Những người ở nơi xa xôi cùng tận trái đất thấy dấu lạ của Ngài đều sợ hãi.
Ngài làm rạng đông và hoàng hôn cho những vùng ở chân trời, góc bể[h]
Đều reo hò vui vẻ.
9 Ngài chăm sóc đất,
Làm cho đất màu mỡ[i] và rất phì nhiêu.
Dòng suối Đức Chúa Trời đầy nước,
Ngài cung cấp thóc lúa.
Ngài chuẩn bị đất bằng cách:
10 Tưới nước các luống cầy,
Ban bằng những gò nổng.
Ngài ban mưa rào thấm nhuần đất đai,
Chúc lành cho hoa quả[j] xum xuê.
11 Ngài đội mão triều phúc lành cho năm,
Các lối Ngài đi qua đượm nhuần màu mỡ.[k]
12 Các đồng cỏ nơi sa mạc được xanh tươi,[l]
Và các đồi núi đầy dẫy[m] sự vui mừng.
13 Các bầy chiên tràn ngập đồng cỏ,
Thóc lúa bao phủ các thung lũng,
Chúng cùng nhau reo hò, ca hát.
16 Nhưng dân chúng đều đáp: “Chúng tôi quyết chẳng bao giờ bỏ CHÚA mà phụng sự các thần khác đâu! 17 Chính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ai-cập là nhà nô lệ, thực hiện những dấu lạ vĩ đại đó ngay trước mắt chúng tôi và phù hộ chúng tôi suốt cuộc trường chinh, khỏi bị các dân tộc hai bên đường làm hại. 18 Ngài tống đuổi trước mặt chúng tôi tất cả các dân tộc, kể cả người A-mô-rít đang ở trong xứ. Chúng tôi cũng sẽ phụng sự CHÚA vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi.”
19 Giô-suê bảo dân chúng: “Các ngươi không đủ sức phụng sự CHÚA đâu vì Ngài là Đức Chúa Trời thánh, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ngài không dung túng sự phản loạn và tội lỗi của các ngươi. 20 Nếu các ngươi bỏ CHÚA mà phụng sự các thần ngoại thì Ngài sẽ xoay lại giáng họa cho các ngươi, kết liễu số phận các ngươi, sau khi đã đối xử tốt với các ngươi cho đến bây giờ.”
21 Nhưng dân chúng vẫn thưa với Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA.”
22 Lúc ấy, Giô-suê nói: “Các ngươi tự làm nhân chứng cho mình rằng các ngươi đã lựa chọn việc phụng sự CHÚA.” Dân chúng đáp: “Vâng, chúng tôi xin làm nhân chứng.”
23 Giô-suê tiếp: “Vậy bây giờ hãy loại bỏ các thần ngoại còn giữa các ngươi, đem lòng đầu phục CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên!”
24 Dân chúng đáp lời Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi và vâng lời Ngài.”
25 Hôm ấy, Giô-suê lập một giao ước cho dân chúng và thiết định các sắc lệnh và quy luật tại Si-chem. 26 Giô-suê ghi chép các lời ấy vào Sách Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Rồi ông lấy một tảng đá lớn, dựng lên tại đó dưới cây sồi gần Nơi Thánh của CHÚA.
27 Giô-suê bảo toàn thể dân chúng: “Kìa, tảng đá này sẽ làm chứng cho chúng ta vì nó đã nghe tất cả những lời CHÚA phán dạy chúng ta. Nó sẽ làm chứng nghịch với các ngươi nếu các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời mình.”
28 Giô-suê cho dân chúng ra về; mỗi người về trong cơ nghiệp mình.
29 Sau các việc đó, Giô-suê, con trai Nun, đầy tớ CHÚA qua đời, thọ được một trăm mười tuổi. 30 Người ta an táng người trong lãnh thổ cơ nghiệp người tại Thim-nát Sê-rách, trên miền rừng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-ách.
31 Dân Y-sơ-ra-ên phụng sự CHÚA suốt đời Giô-suê và các trưởng lão còn sống sót sau Giô-suê, tức là những người đã kinh nghiệm mọi việc CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên.
32 Hài cốt của Giô-sép mà dân Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi Ai-cập được an táng tại Si-chem, trong miếng đất Gia-cốp đã mua của con cái Hê-mô, cha Si-chem, giá một trăm nén bạc;[a] dòng dõi Giô-sép được đất này làm cơ nghiệp.
33 Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, cũng qua đời và được an táng tại Ghi-bê-a, là nơi Phi-nê-a, con trai người được cấp trên miền đồi núi Ép-ra-im.
Lời Gửi Gắm Và Chào Thăm
16 Tôi gửi gắm chị Phê-bê của chúng tôi cho anh chị em; chị là nữ chấp sự của Hội Thánh tại Sơn-cơ-rê. 2 Xin anh chị em đón tiếp chị cách xứng đáng trong Chúa như tiếp đón các thánh đồ. Xin giúp đỡ chị khi chị có điều gì cần anh chị em giúp đỡ, vì chị cũng đã giúp đỡ nhiều người, kể cả tôi nữa.
3 Xin kính chào Bê-rít-sin và A-qui-la, hai bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su. 4 Họ đã liều chết cứu mạng sống tôi, không phải chỉ có tôi cảm tạ họ mà tất cả các Hội Thánh của các dân tộc ngoại quốc cũng ghi ơn họ nữa.
5 Xin kính chào Hội Thánh họp tại nhà họ.
6 Kính chào Ê-bai-nết, người thân yêu của tôi, cũng là trái đầu mùa cho Chúa Cứu Thế trong vùng Tiểu Á. Kính chào bà Ma-ri, là người có công khó phục vụ anh chị em.
7 Kính chào An-trô-ni-cơ và Giu-nia, là bà con và bạn đồng tù với tôi, cũng là những người lỗi lạc giữa vòng các sứ đồ. Họ đã tin Chúa Cứu Thế trước tôi.
8 Kính chào Am-li-a, người thân yêu của tôi trong Chúa.
9 Kính chào U-rơ-ban, bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế và Ích-ta-chi, người thân yêu của tôi.
10 Kính chào A-be-lô, người được Chúa Cứu Thế chấp nhận.
Kính chào những người thuộc gia đình A-rích-tô-bu.
11 Kính chào Hê-rô-đi-ôn là họ hàng tôi.
Hãy chào gia đình Nát-xít là những người trong Chúa.
12 Kính chào Try-phe-nơ và Try-phô-sơ là hai người làm việc trong Chúa.
Kính chào chị Bẹt-si-đơ bạn thân của tôi, người gánh vác nhiều việc trong Chúa.
13 Kính chào Ru-hu, người được Chúa chọn và thân mẫu của anh cũng là thân mẫu tôi.
14 Kính chào A-sin-cơ-rich, Phơ-lê-gôn, Hẹt-me, Pha-trô-ba, Hẹt-ma và các anh chị em ở với họ.
15 Kính chào Phi-lô, Giu-lý, hai chị em Nê-rê, Ô-lim-phi và tất cả các thánh đồ ở với họ.
16 Hãy chào thăm nhau trong tình thân ái.[a]
Tất cả các Hội Thánh của Chúa Cứu Thế đều gửi lời chào anh chị em.
24 Phi-lát thấy không làm được gì, mà lại gây thêm náo động. Ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng rồi bảo: “Ta vô tội về máu người này, các người phải chịu trách nhiệm lấy!”
25 Cả dân chúng đáp: “Nguyện máu của hắn đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”
26 Phi-lát liền tha Ba-ra-ba cho họ. Sau khi cho đánh đòn Đức Giê-su, ông giao Ngài cho họ đóng đinh.
27 Lúc đó lính của quan thống đốc đem Đức Giê-su vào công đường,[a] cả đội quân bao quanh Ngài. 28 Chúng lột áo Ngài ra và mặc cho Ngài một chiếc áo đỏ tía. 29 Chúng đan một mão bằng gai, đội lên đầu Ngài và đặt vào tay phải Ngài một cây sậy rồi quỳ xuống trước mặt Ngài và chế nhạo: “Hoan hô, Vua dân Do Thái!” 30 Chúng khạc nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài. 31 Chế nhạo Ngài xong, chúng lột áo đỏ tía ra và mặc áo lại cho Ngài, rồi dẫn đi đóng đinh.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)