Add parallel Print Page Options

Ca ngợi vinh quang Chúa

96 Cả trái đất, hãy hát một bài ca mới [a] cho Chúa;
    hãy hát tôn vinh Ngài.
Hãy hát xướng cho Chúa và ca ngợi Ngài;
    mỗi ngày hãy thuật lại ơn giải cứu lớn lao của Ngài.
Hãy thuật cho các nước biết vinh quang Ngài,
    và muôn dân biết các điều diệu kỳ Ngài làm,
vì Chúa rất cao cả; Ngài đáng được ca ngợi luôn luôn.
    Ngài đáng được tôn trọng
    hơn tất cả các thần.
Các thần khác hoàn toàn vô ích,
    nhưng Chúa tạo lập các từng trời.
Chúa đầy vinh hiển và uy nghiêm;
    Ngài có năng lực và vẻ đẹp trong đền thánh Ngài.
Hỡi các nước trên đất, hãy ca ngợi Chúa;
    hãy ca ngợi sự vinh hiển và quyền năng Ngài.
Hãy ca ngợi xứng đáng với vinh hiển Ngài.
    Hãy mang của lễ đi vào sân của đền thờ Ngài.
Hãy thờ phụng Chúa vì Ngài là thánh [b].
    Mọi người trên đất, hãy run sợ trước mặt Ngài.
10 Hãy bảo cho các nước rằng,
    “Chúa là vua.”
    Trái đất đã được Chúa an bài,
    sẽ không lay chuyển.
Ngài sẽ phân xử các dân tộc một cách công minh.
11 Các từng trời hãy reo vui,
    đất hãy mừng rỡ;
    biển và mọi vật trong biển
    hãy la lớn lên.
12 Đồng ruộng và mọi vật trong đó hãy hớn hở,
    Mọi cây cối trong rừng
    hãy hát mừng
13 trước mặt Chúa vì Ngài đang ngự đến.
    Ngài đến để phân xử thế gian;
Ngài sẽ phân xử thế gian
    bằng sự công chính và các dân tộc bằng sự thành tín.

Bài hát ca ngợi quyền năng Chúa

97 Chúa là Vua. Cả trái đất hãy reo vui;
    các hải đảo hãy hớn hở.
Quanh Ngài có đám mây đen kịt.
    Nước Ngài được xây trên nền chính trực và công bằng.
Trước mặt Ngài có đám lửa
    thiêu đốt các thù nghịch Ngài bốn phía.
Lằn chớp Ngài chiếu sáng khắp thế gian;
    trái đất thấy liền run sợ.
Núi non tan chảy như sáp trước mặt Chúa,
    trước mặt Chúa của cả trái đất.
Các từng trời thuật lại lòng nhân từ Ngài
    mọi người thấy vinh hiển Ngài.

Những kẻ thờ phụng tượng chạm sẽ bị xấu hổ;
    họ khoe khoang về các thần
    vô dụng của mình.
Tất cả các thần đều thờ phụng Chúa [c].
Giê-ru-sa-lem nghe liền hớn hở,
    các thành Giu-đa vui mừng.
Chúng vui mừng vì sự phân xử của Ngài, thưa Chúa.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng Chí Cao trên khắp đất;
    Ngài được suy tôn trên tất cả các thần.
10 Những ai yêu mến Chúa ghét
    điều ác.
Chúa chăm nom những kẻ trung tín theo Ngài
    và giải thoát họ khỏi quyền lực của kẻ ác.
11 Ánh sáng chiếu trên những ai làm theo lẽ phải;
    sự vui mừng đi theo những kẻ lương thiện.
12 Hỡi những ai làm theo lẽ phải,
    hãy vui mừng trong Chúa.
Hãy ca ngợi danh Ngài.

Chúa quyền năng và công minh

Bài ca ngợi

98 Hãy hát một bài ca mới cho Chúa vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ.
    Tay phải mạnh mẽ và thánh [d] của Ngài giúp Ngài chiến thắng.
Chúa đã dùng quyền năng giải cứu;
    cho muôn dân thấy sự đắc thắng của Ngài dành cho dân tộc Ngài.
Ngài nhớ lại tình yêu và sự thành tín mà Ngài dành cho dân Ít-ra-en.
    Các nơi xa xăm của đất đã thấy quyền năng giải cứu của Thượng Đế.
Cả thế gian hãy reo hò vui vẻ cho Chúa;
    hãy trỗi tiếng ca và dạo nhạc.
Hãy dạo nhạc cho Chúa bằng đờn cầm,
    dùng đờn cầm và âm nhạc.
Hãy thổi kèn cùng tù và;
    hãy lớn tiếng hát mừng cho Chúa, là vua.
Biển và mọi vật trong biển hãy nổi tiếng ầm ầm lên,
    thế gian và mọi người đang sống trên đất hãy xướng hát lên.
Các sông hãy vỗ tay;
    các núi hãy cùng nhau hát mừng.
Tất cả hãy hát xướng trước mặt Chúa,
    vì Ngài đến để phân xử thế gian.
Ngài sẽ phân xử thế gian bằng sự công bằng;
Ngài sẽ phân xử các dân trong công chính.

Chúa, vua công bằng và thánh khiết

99 Chúa là Vua.
    Các dân hãy run sợ
    trước mặt Ngài.
Ngài ngự giữa các con thú bằng vàng có cánh.
    Đất hãy rung động.
Chúa của Giê-ru-sa-lem rất vĩ đại;
    Ngài được suy tôn trên khắp
    các dân.
Mọi người hãy ca ngợi danh Ngài;
    danh Ngài rất lớn,
Ngài là Đấng thánh và đáng sợ.
Vua có quyền năng, Ngài chuộng công lý.
Ngài thiết lập sự công bằng;
    Ngài thi hành điều công chính và phải lẽ giữa dân Gia-cốp.
Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta,
    hãy thờ phụng Ngài nơi bệ chân [e] Ngài.
Ngài là Đấng thánh.
Mô-se và A-rôn là thầy tế lễ
    của Ngài,
    Sa-mu-ên cũng kêu cầu cùng Ngài.
Họ kêu xin cùng Chúa,
    Ngài liền đáp lời họ.
Ngài phán với họ trong trụ mây.
    Họ giữ các qui tắc và luật lệ Ngài ban cho.
Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi,
    Ngài đáp lời họ.
Ngài cho họ thấy Ngài là Đấng hay tha thứ,
    nhưng sửa trị xứng đáng những hành vi sai lầm của họ.
Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta,
    hãy cúi xuống thờ phụng Ngài trên núi thánh Ngài,
    vì Chúa, Thượng Đế chúng ta là Đấng thánh.

Khuyên mọi người hãy ca ngợi Chúa

Bài ca cảm tạ.

100 Hỡi cả thế gian, hãy reo vang ca ngợi Chúa.
Hãy vui mừng phục vụ Chúa;
    hát xướng mà đến trước mặt Chúa.
Phải biết rằng Chúa là Thượng Đế.
Ngài tạo nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài.
    Chúng ta là dân Ngài, là bầy chiên Ngài chăn giữ.
Hãy hát cảm tạ mà đi vào thành thánh Ngài
    và bước vào sân đền Ngài bằng tiếng ca tôn vinh.
Hãy cảm tạ và ca ngợi danh Ngài.
CHÚA rất nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đời đời,
    sự thành tín Ngài kéo dài
    vô tận.

Lời cam kết sẽ trị nước công minh

Bài ca của Đa-vít.

101 Tôi sẽ hát ca về tình yêu và lòng công minh;
    Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài.
Tôi sẽ cố gắng sống cuộc đời
    toàn thiện.
Bao giờ thì Ngài sẽ đến cùng tôi [f]?
    Tôi sẽ sống cuộc đời toàn thiện trong nhà tôi.
Tôi sẽ không nhìn điều gì xấu xa [g].
    Những điều ấy sẽ không bám vào tôi.
Tôi không muốn liên can đến điều bất lương;
    Tôi không muốn dính vào việc ác.
Tôi sẽ ngăn chận kẻ nói lén người láng giềng mình,
    luôn cả những kẻ tự phụ và kiêu căng.

Tôi sẽ tìm người đáng tin trong xứ để sống chung với tôi.
    Chỉ những ai có đời sống thanh liêm
    mới được làm tôi tớ cho tôi thôi.
Kẻ bất lương không được ngụ trong nhà tôi;
    bọn nói dối phải dang xa khỏi tôi.
Mỗi sáng tôi sẽ tiêu diệt mọi kẻ ác trong xứ.
    Tôi sẽ trừ khử mọi kẻ gian tà khỏi thành của Chúa.

Lời kêu xin cứu giúp

Lời cầu nguyện của người đang khốn khổ khi người yếu đuối và bày tỏ lòng buồn bực cùng Chúa.

102 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu nguyện tôi;
    nguyện lời kêu xin của tôi lên đến Ngài.
Xin đừng lánh mặt trong khi tôi gặp khốn khó.
    Xin hãy lưu ý đến tôi.
Khi tôi kêu cầu, xin Ngài nghe tiếng tôi.
Đời tôi tan đi như mây khói,
    xương cốt tôi cháy như than đỏ.
Lòng tôi như cỏ bị cắt và phơi khô.
    Tôi quên cả ăn.
Vì quá sầu khổ,
    tôi chỉ còn da bọc xương.
Tôi như chim cú trong sa mạc,
    như chim cú sống trong các nơi đổ nát.
Tôi nằm thao thức.
    Tôi giống như chim lẻ bạn đậu trên mái nhà.
Suốt ngày kẻ thù sỉ nhục tôi;
    những kẻ chế giễu tôi nguyền rủa tôi [h].
Thức ăn của tôi là điều buồn bã,
    nước mắt là thức uống.
10 Trong cơn giận,
    Chúa đã túm bắt và ném tôi
    thật xa.

11 Những ngày tháng của tôi sắp qua đi như bóng câu;
    Tôi héo như cỏ.
12 Nhưng Chúa ôi, Ngài cai trị muôn đời,
    uy danh Ngài còn đời nầy qua đời kia.
13 Ngài sẽ đến và thương xót Giê-ru-sa-lem,
    đã đến lúc Ngài tỏ lòng nhân từ cùng thành ấy;
    nay chính là thời điểm đó.
14 Các kẻ tôi tớ Chúa yêu thích
    các tảng đá của thành ấy,
    cả đến bụi bặm của nó nữa.
15 Các dân sẽ kính sợ danh Chúa,
    các vua trên đất sẽ tôn trọng Ngài.
16 Chúa sẽ xây lại Giê-ru-sa-lem;
    người ta sẽ nhìn thấy vinh hiển Ngài ở đó.
17 Ngài sẽ đáp lời cầu nguyện
    của kẻ khốn cùng,
    và không từ chối lời khẩn cầu
    của họ.
18 Hãy viết những điều nầy để thế hệ mai sau ca ngợi Chúa.
19 Từ nơi thánh Ngài trên cao Chúa trông xuống;
    từ thiên đàng Ngài nhìn xuống đất.
20 Ngài nghe tiếng than vãn của các tù nhân,
    Ngài giải thoát những kẻ bị kêu án tử hình.
21 Để người ta sẽ rao truyền danh Chúa tại Giê-ru-sa-lem;
    lời ca ngợi Ngài sẽ được nghe
    ở đó.
22 Các dân sẽ cùng họp nhau,
    các nước sẽ phục vụ Ngài.

23 Chúa khiến tôi chán sống;
    Ngài đã cắt ngắn đời tôi.
24 Cho nên tôi thưa, “Lạy Chúa tôi ôi,
    xin đừng cất mạng tôi nửa chừng.
Các năm Chúa còn mãi mãi.
25 Thuở xưa Chúa dựng nên trái đất,
    bàn tay Ngài làm ra các bầu trời.
26 Trời đất sẽ tiêu tan,
    nhưng Chúa sẽ tồn tại mãi.
Trời đất sẽ mòn cũ như áo quần,
    Ngài sẽ thay và ném bỏ chúng đi như quần áo.
27 Nhưng Chúa không bao giờ thay đổi,
    các năm tháng CHÚA không hề chấm dứt.
28 Con cái chúng tôi sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài,
    và cháu chắt chúng tôi sẽ được bình an trước mặt Ngài.”

Footnotes

  1. Thánh Thi 96:1 bài ca mới Khi Thượng Đế làm một điều mới lạ cho dân Ngài thì họ viết một bài ca mới cảm tạ về điều đó.
  2. Thánh Thi 96:9 vì Ngài là thánh Hay “bằng y phục thánh,” hoặc “trong nơi thánh rất tốt đẹp.” Câu nầy tiếng Hê-bơ-rơ không rõ nghĩa.
  3. Thánh Thi 97:7 Tất cả … thờ phụng Chúa Hay “Tất cả các thần, hãy thờ phụng CHÚA.”
  4. Thánh Thi 98:1 Tay phải mạnh mẽ và thánh Câu nầy mô tả Thượng Đế là vua và chiến sĩ. Tay phải tiêu biểu cho quyền năng và sức mạnh của Ngài, còn “thánh” có thể là nguyên tắc tẩy uế mà dân Ít-ra-en làm trước khi ra trận.
  5. Thánh Thi 99:5 bệ chân Còn có nghĩa “đền thờ” hay “Rương Giao ước.”
  6. Thánh Thi 101:2 Bao giờ … tôi Còn có nghĩa “Khi nào thì đời toàn thiện sẽ đến với tôi.”
  7. Thánh Thi 101:3 điều gì xấu xa Hay “hình tượng.”
  8. Thánh Thi 102:8 nguyền rủa tôi Hay “dùng tên tôi để nguyền rủa.”