Add parallel Print Page Options

Lời kêu xin Chúa mau đến cứu giúp

Soạn cho nhạc trưởng: Bài ca của Đa-vít để nhắc nhở.

70 Lạy Chúa, xin mau đến cứu tôi.
    Lạy Chúa xin đến giúp tôi ngay.
Xin hãy khiến những kẻ định giết tôi
    phải hổ nhục và nhuốc nhơ.
Nguyện những kẻ muốn hại tôi
    phải bỏ chạy vì xấu hổ.
Nguyện những kẻ chế giễu tôi
    ngưng lại vì nhục nhã.
Nhưng nguyện cho những kẻ thờ phụng Ngài vui mừng hớn hở.
Nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi Ngài luôn luôn nói,
    “Đáng ca ngợi sự cao cả của Thượng Đế.”

Tôi nghèo khổ và cùng khốn;
    lạy Chúa xin hãy mau đến với tôi.
Chúa giúp đỡ và cứu rỗi tôi.
    Lạy Chúa, xin đừng chậm trễ.

Lời cầu nguyện của người già cả

71 Lạy Chúa, Ngài là nơi che chở tôi.
    Xin đừng để tôi bị sỉ nhục.
Vì Ngài luôn làm điều công chính,
    xin hãy cứu tôi;
    hãy lắng nghe và giải cứu tôi.
Xin làm nơi trú ẩn an toàn cho tôi.
    Xin làm đồn lũy bảo vệ tôi,
    vì Ngài là khối đá và là nơi tôi ẩn náu.
Lạy Thượng Đế, xin cứu tôi khỏi quyền lực kẻ ác,
    khỏi tầm tay của kẻ bất công
    và người hung ác.
Lạy Chúa, Ngài là hi vọng của tôi,
    là Đấng tôi tin cậy từ buổi ấu thơ.
Tôi đã nhờ cậy Ngài từ khi mới lọt lòng mẹ;
    Chúa đã giúp tôi từ lúc tôi mới chào đời.
    Tôi sẽ luôn luôn ca ngợi Ngài [a].
Tôi sẽ là một tấm gương cho nhiều người,
    vì Ngài là Đấng che chở tôi.
Tôi luôn luôn ca tụng Ngài;
    suốt ngày tôi tôn kính Ngài.
Xin đừng từ bỏ tôi khi tôi về già;
    đừng xa tôi khi sức tôi suy tàn.
10 Kẻ thù lập mưu hại tôi,
    chúng nhóm họp lại định giết tôi.
11 Chúng bảo nhau, “Thượng Đế bỏ nó rồi.
Chúng ta hãy đuổi theo bắt lấy nó
    vì chẳng ai cứu nó đâu.”
12 Lạy Thượng Đế, xin chớ đứng xa.
    Lạy Chúa của tôi, xin hãy mau đến giúp tôi.
13 Xin hãy khiến những kẻ tố cáo tôi
    bị xấu hổ và tiêu diệt.
Nguyện kẻ lập tâm hại tôi
    bị sỉ nhục và nhuốc nhơ bao trùm.
14 Nhưng tôi sẽ luôn luôn nuôi hi vọng
    và ca tụng Ngài càng ngày càng gia tăng.
15 Tôi sẽ thuật lại sự công chính của Chúa.
Suốt ngày tôi sẽ kể lại sự cứu rỗi Chúa,
    dù tôi không đếm hết được.
16 Lạy Chúa, tôi sẽ thuật lại các việc quyền năng Chúa.
    Tôi sẽ nhắc nhở mọi người rằng chỉ một mình Ngài làm điều công chính.
17 Lạy Thượng Đế, Ngài đã dạy tôi từ khi tôi còn thơ ấu.
    Cho đến nay tôi vẫn thuật lại phép lạ Ngài làm.
18 Dù khi tôi già yếu, tóc bạc hoa râm,
    lạy Chúa, xin đừng rời tôi cho đến khi tôi thuật lại cho con cháu tôi biết quyền năng Chúa;
    cho đến khi tôi kể lại cho dòng dõi đến sau tôi về sức mạnh Ngài.
19 Lạy Chúa, sự công minh Chúa vượt cao hơn các từng trời.
Chúa đã làm nhiều việc lớn lao;
    Thượng Đế ôi, không ai giống như Ngài.
20 Chúa đã cho tôi gặp nhiều cảnh khốn khó gian nan,
    nhưng Ngài sẽ hồi sức lại cho tôi.
Dù khi tôi gần qua đời,
    Chúa sẽ khiến tôi sống.
21 Chúa sẽ khiến tôi được sang trọng hơn bao giờ hết,
    Ngài sẽ an ủi tôi trở lại.
22 Tôi sẽ ca ngợi Chúa bằng đờn cầm,
    Về sự thành tín của Ngài là Thượng Đế tôi.
Lạy Đấng thánh của Ít-ra-en,
    tôi sẽ hát cho Ngài bằng đờn sắt.
23 Tôi sẽ lớn tiếng vui mừng ca ngợi Ngài vì Ngài đã cứu tôi.
24 Suốt ngày tôi sẽ thuật lại sự công minh của Chúa.
Còn những kẻ muốn hại tôi
    sẽ xấu hổ và bị sỉ nhục.

Lời cầu nguyện cho vua

Bài ca tặng Sô-lô-môn [b].

72 Lạy Chúa, xin ban sự công minh cho vua
    và ban sự nhân từ Ngài
    cho hoàng tử.
Xin giúp vua biết phân xử dân chúng
    một cách công bằng
    và bênh vực kẻ nghèo khó.
Nguyện các núi mang lại hoà bình
    và các đồi mang lại nhân từ.
Xin giúp vua đối xử công bằng cho kẻ nghèo,
    cứu người túng thiếu
    và trừng phạt kẻ hiếp đáp.
Hễ mặt trời còn chiếu sáng và mặt trăng còn soi bóng bao lâu,
    nguyện họ biết kính sợ Chúa bấy lâu.
Nguyện vua như mưa rơi xuống cỏ,
    như mưa rào tưới đất.
Nguyện sự nhân từ được dồi dào
    trong đời vua.
Nguyện sự hoà bình còn mãi như mặt trăng.
Nguyện nước vua trải rộng từ biển nầy đến biển kia,
    và từ sông Ơ-phơ-rát cho đến tận cùng trái đất [c].
Nguyện dân cư sống trong sa mạc cúi đầu trước Ngài
    và các kẻ thù Ngài phải liếm bụi đất.
10 Nguyện các vua Tạt-si và các vùng đất xa xăm
    hãy mang tặng vật đến cho vua.
Các vua Sa-ba và Sê-ba
    hãy mang của lễ đến cho Ngài.
11 Nguyện các vua cúi đầu trước Ngài,
    và các dân tộc phục vụ Ngài.
12 Ngài sẽ giúp kẻ nghèo khổ khi họ kêu cầu
    và cứu kẻ túng thiếu không ai giúp đỡ.
13 Ngài sẽ tỏ lòng nhân ái đối với kẻ yếu đuối nghèo nàn,
    cứu vớt mạng sống họ.
14 Ngài sẽ cứu họ khỏi tay kẻ hung bạo đang tìm cách ức hiếp họ
    vì mạng sống họ là quí trước mặt vua.
15 Vua vạn tuế!
    Cầu cho vua nhận được vàng từ Sê-ba.
Mọi người hãy cầu nguyện cho vua,
    hằng ngày chúc phước cho vua.
16 Nguyện ruộng đất sinh sản đầy ngũ cốc,
    các đồi đầy hoa màu,
    và phì nhiêu như Li-băng,
    các thành trì mọc lên như cỏ trong đồng nội.
17 Nguyện vua được uy danh mãi mãi;
    hễ mặt trời còn chiếu sáng bao lâu,
    nguyện vua được ghi nhớ bấy lâu.
    Nguyện các dân được phước vì vua,
muôn dân chúc phước cho người.

18 Chúc tụng Chúa là Thượng Đế, Thượng Đế của Ít-ra-en
    là Đấng duy nhất làm được các phép lạ đó.
19 Nguyện danh vinh hiển Ngài được ca ngợi mãi mãi.
    Nguyện vinh hiển Ngài đầy dẫy đất.
    A-men! A-men!

20 (Đến đây chấm dứt các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Gie-xê.)

Quyển 3

(Thi-thiên 73-89)

Kẻ ác có giàu được không?

Bài ca ngợi của A-sáp.

73 Thượng Đế thật nhân từ
    cùng Ít-ra-en,
    cùng những kẻ có lòng trong sạch.
Nhưng chân tôi gần vấp té;
    suýt nữa tôi trượt ngã vào tội lỗi.
Tôi ganh tức với kẻ tự phụ.
    Tôi thấy kẻ ác được thịnh vượng.
Chúng chẳng gặp đau khổ;
    chúng khoẻ mạnh và sung sức.
Chúng chẳng hề gặp khốn khó
    như người khác;
    không vướng hoạn nạn như kẻ khác.
Chúng mang tính tự kiêu như kiềng đeo cổ,
    mặc sự hung bạo như áo quần.
Mắt chúng sáng rỡ vì của cải,
    chẳng kiềm chế dục vọng ích kỷ.
Chúng chế diễu kẻ khác,
    buông lời bêu xấu kẻ khác;
    kiêu căng đe dọa mọi người.
Chúng khoe khoang chuyện trời đất,
    hành động như thể đất nầy
    là của chúng.
10 Đến nỗi dân của Thượng Đế cũng chạy theo chúng,
    nghe theo điều chúng nói [d].
11 Chúng bảo, “Làm sao Trời biết được?
    Đấng Chí Cao có biết gì đâu?”

12 Dân nầy là dân độc ác,
    nhưng chúng sống thoải mái,
    càng ngày càng hưng thịnh.
13 Vậy thì tôi lo giữ lòng thanh sạch để làm gì?
    Tại sao tôi phải giữ cho tay mình khỏi phạm tội?
14 Suốt ngày tôi chịu khổ sở;
    mỗi sáng tôi chịu hình phạt.

15 Lạy Thượng Đế, nếu tôi bảo,
tôi sẽ nói những điều ấy,
    thì tôi hẳn đã phản bội dân Chúa.
16 Tôi cố gắng hiểu thấu việc ấy,
    thấy khó giải thích vô cùng,
17 mãi đến khi vào đền thờ của Thượng Đế,
    tôi mới hiểu chung cuộc của chúng nó.
18 Ngài đưa chúng vào chỗ hiểm nguy;
    khiến chúng bị tiêu diệt.
19 Trong chốc lát chúng bị tiêu diệt;
    bị cơn kinh hoàng thổi bay đi.
20 Giống như người tỉnh mộng liền quên hết chiêm bao.
    Lạy Chúa, khi Ngài đứng lên, chúng sẽ tan biến.

21 Khi lòng tôi buồn bã và bực tức,
22 tôi không hiểu biết và ngu xuẩn.
    Tôi hành động như thú vật đối cùng Ngài.
23 Nhưng tôi ở cùng Chúa luôn luôn;
    Ngài nắm tay phải tôi.
24 Ngài dùng lời để khuyên dạy tôi,
    rồi nghênh tiếp tôi trong vinh dự.
25 Trên trời, tôi không có ai ngoài Chúa;
    Dưới đất, tôi chẳng mong ai ngoài Ngài.
26 Thân thể và tinh thần [e] tôi suy yếu,
    nhưng Thượng Đế là sức mạnh tôi [f].
Ngài là di sản của tôi cho đến đời đời.
27 Những kẻ lìa xa Chúa sẽ chết;
    Ngài tiêu diệt các kẻ bất trung.
28 Nhưng tôi sống gần Chúa, đó là điều tốt.
Chúa, Thượng Đế là nơi trú ẩn
    của tôi.
    Tôi sẽ thuật hết các công việc Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 71:6 ca ngợi Ngài Hay “cầu nguyện cùng Ngài.”
  2. Thánh Thi 72:1 Thi thiên 72 tặng Sô-lô-môn Thi thiên nầy có thể nghĩa là do Sô-lô-môn sáng tác, hoặc được soạn và tặng cho Sô-lô-môn, hoặc có thể là một bài trong những tuyển tập thi thiên ca ngợi.
  3. Thánh Thi 72:8 đến tận cùng trái đất Khi nói như thế nầy thường ám chỉ các quốc gia quanh Địa-trung-hải.
  4. Thánh Thi 73:10 Đến nỗi … chúng nói Câu nầy hơi khó hiểu trong nguyên tác Hê-bơ-rơ.
  5. Thánh Thi 73:26 tinh thần Nguyên văn, “tấm lòng.”
  6. Thánh Thi 73:26 sức mạnh tôi Nguyên văn, “Khối Đá của lòng tôi.”