Add parallel Print Page Options

Cầu nguyện xin Chúa thương xót trong khi gặp cảnh khốn khó

Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với nhạc khí bằng dây. Theo điệu sê-mi-nít. Thi thiên của Đa-vít.

CHÚA ôi, xin đừng sửa trị tôi
    trong khi Ngài nổi giận;
    xin đừng trừng phạt tôi khi Ngài đang thịnh nộ.
Lạy CHÚA, xin thương xót tôi,
    vì tôi đuối sức.
    CHÚA ôi, xin chữa lành tôi,
    vì xương cốt tôi run rẩy.
Tôi rất lo sợ,
    CHÚA ôi, chừng nào thì Ngài
    sẽ chữa lành cho tôi?
Lạy CHÚA xin trở lại giải cứu tôi;
    hãy cứu tôi vì lòng nhân từ của CHÚA.
Kẻ chết không nhớ đến CHÚA đâu;
    người nằm trong mồ làm sao ca ngợi CHÚA được?

Tôi mệt mỏi vì than vãn cùng Ngài.
    Mỗi đêm tôi khóc ướt giường tôi;
    dầm nó trong nước mắt.
Mắt tôi mờ vì kêu khóc;
    lòa vì than khóc kẻ thù tôi.

Hỡi những kẻ làm ác hãy đi khỏi ta
    vì CHÚA đã nghe tiếng kêu than ta.
CHÚA đã nghe tiếng kêu cứu của ta;
    CHÚA sẽ đáp lời cầu nguyện ta.

10 Các kẻ thù tôi sẽ xấu hổ và lo sợ.
    Chúng nó sẽ bất thần bỏ đi vì nhục nhã.

Sự cao cả của Chúa

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu ghi-tít. Thi thiên của Đa-vít.

Lạy CHÚA là chủ tôi, danh CHÚA
    thật diệu kỳ trên khắp đất!
    Danh đó khiến trời cao ca ngợi Ngài.

Vì cớ kẻ thù nên Ngài dạy cho trẻ thơ
    và hài nhi ca ngợi Ngài
    để chúng bị câm miệng
    và để diệt những kẻ định báo thù.

Tôi nhìn bầu trời do tay Ngài tạo nên.
    Tôi ngắm mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã dựng nên.
Thì con người là gì mà Ngài bận tâm?
    Tại sao CHÚA chăm sóc loài người [a]?
CHÚA tạo nên con người [b] dưới thiên sứ một chút
    rồi ban cho người vinh hiển và danh dự.
Ngài đặt con người quản trị
    mọi loài Ngài đã tạo dựng.
    Ngài đặt mọi vật dưới quyền
    kiểm soát của con người:
tất cả chiên cừu, gia súc, muông thú,
chim trời, cá biển và mọi sinh vật trong biển.
Lạy CHÚA là chủ tôi,
    danh CHÚA thật diệu kỳ trên khắp đất!

Cảm tạ vì đắc thắng

[c] Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Cái chết của Con [d].” Thi thiên của Đa-vít.

Lạy CHÚA, tôi sẽ hết lòng ca ngợi Ngài.
    Tôi sẽ thuật lại các phép lạ Ngài đã làm.
Tôi sẽ vui mừng vì Ngài;
    lạy Thượng Đế Chí Cao,
    tôi sẽ ca ngợi danh Ngài.
Các kẻ thù tôi lùi lại;
    vì cớ Ngài chúng bị vây khốn
    và tiêu diệt.

Ngài đã nghe lời than vãn của tôi;
    Ngài ngự trên ngôi và phân xử
    công bằng cho tôi.
CHÚA quở trách các quốc gia
    và tiêu diệt kẻ ác;
    Ngài vĩnh viễn xóa sạch tên chúng nó.
Kẻ thù tôi bị tiêu diệt đời đời.
    Ngài hủy phá thành của chúng nó;
    không ai còn nhớ đến chúng nữa.

Nhưng CHÚA ngự trị đến muôn đời.
    Ngài ngự trên ngôi và phân xử,
dùng lẽ công bằng phân xử thế gian;
    Ngài sẽ phân xử chính trực
    cho mọi dân.
CHÚA bênh vực kẻ khốn khổ;
    Ngài bênh vực họ khi họ
    lâm cảnh khốn cùng.

10 Những ai biết uy danh CHÚA
    sẽ đặt lòng tin cậy nơi Ngài
    vì Ngài không xua đuổi
    kẻ tìm kiếm Ngài.

11 Hãy ca ngợi CHÚA là vua ngự
    trên núi Xi-ôn [e].
    Hãy thuật cho các dân biết
    những việc lớn lao Ngài làm.
12 Ngài ghi nhớ kẻ giết người;
Ngài không quên tiếng kêu
    của kẻ khốn cùng.

13 Lạy CHÚA, xin thương xót tôi.
    Hãy xem kẻ thù hại tôi biết bao nhiêu.
    Đừng để tôi đi qua cổng chết.
14 Rồi tại cửa thành Giê-ru-sa-lem,
    tôi sẽ ca ngợi Ngài;
    tôi sẽ vui mừng vì Ngài đã cứu tôi.

15 Các dân rơi vào hố chúng đã đào.
    Chân chúng vướng phải lưới
    chúng đã giăng.
16 CHÚA đã tỏ mình qua những
    phán quyết công bình của Ngài;
    kẻ ác bị sập bẫy do điều chúng làm. Hi-gai-on [f]Xê-la

17 Kẻ ác đi xuống mồ
    và những ai quên CHÚA cũng vậy.
18 Nhưng những kẻ khốn cùng
    sẽ không bị quên lãng.
    Hi vọng của kẻ nghèo không bao giờ tiêu mất.

19 Lạy CHÚA, xin đứng dậy phân xử các nước.
    Đừng để các dân tưởng mình mạnh mẽ.
20 Lạy CHÚA, xin hãy dạy họ kính sợ Ngài.
    Các dân nên biết rằng mình
    chẳng qua chỉ là người phàm. Xê-la

Lời phàn nàn về kẻ ác

10 CHÚA ôi, sao Ngài đứng xa?
    Trong khi tôi gặp khốn khó,
    sao Ngài lánh mặt đi?
Kẻ ác hung hăng rượt đuổi người khốn khổ.
    Cầu cho chúng nó sập bẫy chúng giăng ra.
Chúng nó khoe khoang về lòng tham muốn mình.
    Chúng chúc phước cho kẻ tham lam nhưng ghét Thượng Đế.
Kẻ ác quá sức kiêu căng.
    Chúng không bao giờ tìm kiếm Thượng Đế.
    Trong đầu chúng không có chỗ nào cho CHÚA.
Chúng luôn luôn thành công,
    Sự xét đoán của CHÚA cao quá
    điều hiểu biết của chúng;
    chúng chế diễu kẻ thù mình.
Rồi tự nhủ, “Sẽ không có tai họa gì xảy đến cho ta;
    ta sẽ chẳng bao giờ bị tàn hại.”
Môi miệng chúng nó đầy lời
    chửi rủa, dối trá và đe dọa;
    chúng dùng lưỡi mình để phạm tội và làm điều ác.
Chúng lẩn khuất ở các làng mạc,
    tìm người vô tội để giết;
    chúng núp nơi kín để bắt kẻ khốn cùng.
Chúng rình mò như sư tử rình mồi.
Chúng rình bắt kẻ nghèo;
    chụp bắt kẻ khốn khó,
    kéo họ vào trong lưới chúng.
10 Kẻ nghèo bị xô đẩy và giày đạp;
    họ bị thua thiệt vì kẻ thù họ mạnh hơn.
11 Kẻ ác thầm nghĩ, “CHÚA đã quên chúng ta rồi.
    Ngài không thấy gì hết.”

12 Lạy CHÚA, xin đứng dậy và ra tay.
    Xin đừng quên kẻ khốn cùng.

13 Tại sao kẻ ác ghét CHÚA?
    Chúng tự nhủ, “Thượng Đế sẽ không trừng phạt chúng ta đâu.”
14 Lạy CHÚA, Ngài hẳn đã thấy những điều hung bạo và gian ác nầy;
    xin nhìn đến và ra tay.
Những kẻ khốn cùng trông cậy Ngài giúp đỡ.
    Ngài là Đấng cứu giúp kẻ mồ côi.

15 Xin bẻ gãy quyền lực kẻ ác.
    Xin trừng phạt tội phạm của chúng cho đến khi không còn điều ác nào.
16 CHÚA làm vua đến đời đời.
    Ngài đã tiêu diệt các dân ngoại quốc khỏi mặt đất.
17 Lạy CHÚA, Ngài đã nghe nguyện vọng kẻ nghèo.
    Xin đáp lời họ van xin
    và nghe tiếng kêu cầu của họ.
18 Xin bảo vệ kẻ mồ côi,
    kéo họ ra khỏi cảnh khốn khổ
    để họ không còn sợ kẻ ác nữa.

Footnotes

  1. Thánh Thi 8:4 Thì con người … loài người Nguyên văn, “Ê-nóc … con cái A-đam.” Đây là lối nói của người Hê-bơ-rơ để ám chỉ loài người—con cháu của A-đam và Ê-nóc.
  2. Thánh Thi 8:5 con người Tức là loài người nói chung.
  3. Thánh Thi 9:1 Thi thiên 9 Trong nhiều bản Hê-bơ-rơ và bản cổ Hi-lạp thì Thi thiên 9 và 10 nhập chung làm một.
  4. Thánh Thi 9:1 Thi thiên 9 Cái chết của Con Nguyên văn, “A-la-mốt của Ben.” Đây là một điệu nhạc hay là một bản hòa tấu trong đền thờ. Xem I Sử 15:20.
  5. Thánh Thi 9:11 Hãy ca ngợi … trên núi Xi-ôn Hay “Hỡi cư dân Xi-ôn, hãy ca ngợi CHÚA.” Xem “Xi-ôn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  6. Thánh Thi 9:16 Hi-gai-on Hay “suy tư.” Cùng với dấu hiệu Xê-la, dấu hiệu nầy có thể nghĩa là hãy ngưng lại và suy tư.

Kẻ vô tín ngu dại

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

14 Kẻ ngu dại nghĩ thầm, “Chẳng có Thượng Đế đâu.”
    Bọn ngu dại ấy đều độc ác và hành động nhơ nhuốc;
    Chẳng có ai làm điều thiện.

Từ trời CHÚA nhìn xuống
    loài người xem thử có ai hiểu biết,
    hoặc tìm kiếm Thượng Đế để xin Ngài hướng dẫn chăng.
Nhưng ai nấy đều quay đi.
    Tất cả đều gian ác.
Chẳng có ai làm điều thiện,
    không có lấy một người

Kẻ ác không hiểu biết sao?
    Chúng tiêu diệt dân ta như ăn bánh.
    Chúng không hề nhờ cậy CHÚA.
Nhưng kẻ ác bị kinh hoảng
    vì CHÚA ở cùng những người làm điều phải.
Mưu mô kẻ ác nghịch cùng người nghèo sẽ thất bại,
    vì CHÚA gìn giữ họ.

Tôi cầu mong cho chiến thắng đến với Ít-ra-en từ núi Xi-ôn!
Khi CHÚA phục hồi dân của Ngài,
    thì con cháu Gia-cốp sẽ vui mừng,
    và dân Ít-ra-en sẽ hớn hở.

Chúa chăm sóc dân Ngài

Bài “mịch-tâm” của Đa-vít.

16 Lạy Thượng Đế, xin hãy bảo vệ tôi vì tôi tin cậy nơi Ngài.
Tôi [a] thưa cùng CHÚA, “Ngài là CHÚA tôi.
    Mọi ơn phước tôi có là do CHÚA ban.”
Tôi rất ưa thích những người
    thánh thiện trên đất.

Những kẻ chạy theo hình tượng sẽ khốn khổ.
    Tôi sẽ không dâng huyết cho các thần tượng ấy,
    và cũng không nhắc đến tên tuổi chúng nó nữa.
Tôi chỉ cần một mình CHÚA thôi.
    Ngài chăm sóc tôi.
Đời sống [b] tôi trên đất rất tốt đẹp;
    phần số [c] tôi thật tuyệt diệu.
Tôi ca ngợi CHÚA vì Ngài chỉ dạy tôi.
    Còn ban đêm, lương tâm tôi dạy dỗ tôi.

Tôi luôn luôn để CHÚA đứng trước mặt.
    Vì Ngài ở bên tôi,
    tôi sẽ không bị tổn hại gì.
Nên lòng tôi vui mừng,
    thâm tâm tôi hớn hở.
Thân thể tôi được yên ổn,
10 vì Ngài sẽ không bỏ tôi trong huyệt mả,
    cũng chẳng để người thánh
    của CHÚA bị mục nát.
11 Lạy CHÚA, xin dạy tôi sống đời thánh thiện.
    Được ở cùng CHÚA khiến tôi tràn đầy niềm vui;
    Ở bên tay phải CHÚA tôi vô cùng sung sướng.

Footnotes

  1. Thánh Thi 16:2 Tôi Một số bản ghi, “Vài người trong các ngươi.”
  2. Thánh Thi 16:6 Đời sống Hay “phần đất.”
  3. Thánh Thi 16:6 phần số Hay “di sản.” Đây rất có thể ám chỉ phần đất mà mỗi người Ít-ra-en nhận.

Công việc và lời phán của Thượng Đế

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

19 Các từng trời thuật lại sự vinh hiển của Thượng Đế,
    bầu trời loan báo công việc tay Ngài làm.
Ngày nầy sang ngày khác,
    chúng thuật chuyện,
    đêm nọ sang đêm kia [a],
    chúng bày tỏ quyền năng Ngài.
Chúng chẳng dùng tiếng hay lời;
    không ai nghe âm thanh chúng.
Thế nhưng thông điệp chúng vang dội bốn phương;
    lời nói chúng truyền ra khắp đất.

    Ngài tạo không gian làm chỗ ở của mặt trời.
Mặt trời xuất hiện như chàng rể bước ra khỏi phòng tân hôn.
    Hớn hở như lực sĩ sẵn sàng chạy đua.
Mặt trời mọc từ phương trời nầy
    chạy giáp vòng đến phương trời kia.
Không gì tránh khỏi sức nóng của nó được.

Những lời dạy dỗ CHÚA thật hoàn hảo
    để tăng thêm sức mới.
Qui tắc CHÚA thật đáng tin
    khiến kẻ tầm thường nên khôn ngoan.
Mệnh lệnh của CHÚA đều đúng,
    khiến con người vui mừng.
Mệnh lệnh của CHÚA rất tinh sạch,
    soi sáng lối đi.

Sự kính sợ CHÚA là tốt lành,
    sẽ còn mãi mãi.
Phán đoán CHÚA là thật,
    hoàn toàn hợp lý.
10 Chúng quí giá hơn vàng,
    thật báu hơn cả vàng ròng.
Ngọt hơn mật,
    hơn cả mật nguyên chất.
11 Những điều đó cảnh tỉnh tôi tớ CHÚA.
    Ai vâng giữ thì được phần thưởng lớn.

12 Người ta thường không thấy lỗi lầm của mình.
    Xin CHÚA tha các tội của tôi.
13 Xin đừng để tôi phạm tội tự phụ;
    đừng để chúng cai trị tôi.
Thì tôi sẽ trong sạch
    và không bị hoen ố bởi những tội trọng.
14 Nguyện những lời nói và tư tưởng của tôi đẹp lòng Ngài.
    Lạy CHÚA, Ngài là Khối Đá, Đấng cứu tôi.

Footnotes

  1. Thánh Thi 19:2 đêm nọ sang đêm kia Hay “Như người ta đổi phiên gác, ngày nầy chuyền sang cho ngày kia, đêm nầy qua đêm nọ, chúng chuyền nhau tin tức.”

Lời cảm tạ vì vua

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

21 Lạy CHÚA, vua vui mừng trong sức mạnh Ngài;
    vua hớn hở khi được Ngài cứu!
Ngài ban cho vua điều người ao ước
    và không từ chối điều gì người xin. Xê-la

Ngài đặt mọi điều tốt đẹp trước mặt người
    và đội mão triều bằng vàng trên đầu người.
Người xin được sống lâu, CHÚA liền ban cho,
    nên năm tháng người kéo dài vô tận.
Người được hiển vinh vì Ngài cho người sự đắc thắng.
    Ngài ban cho người vinh dự và lời ca tụng.
Ngài luôn ban phước cho người;
    Ngài khiến người vui mừng vì Ngài ở với người.
Vua thật tin cậy nơi CHÚA.
    Vì Thượng Đế Chí cao luôn yêu mến người
    cho nên người sẽ không dao động.
Tay CHÚA chống lại các kẻ thù nghịch mình;
    những kẻ ghét Ngài sẽ nếm biết quyền năng Ngài.
Khi Ngài xuất hiện,
    Ngài sẽ thiêu chúng trong lò lửa.
Đang cơn giận, Ngài sẽ thiêu đốt chúng trong lửa [a].
10 Ngài sẽ diệt gia đình chúng khỏi đất,
    và con cháu chúng cũng không còn.
11 Chúng âm mưu ác nghịch cùng Ngài,
    nhưng mưu mô chúng bất thành.
12 Ngài khiến chúng nó xoay lưng
    khi Ngài nhắm tên bắn chúng nó.

13 Lạy CHÚA, chúng tôi sẽ tôn cao Ngài bằng bài ca,
    Sẽ ca ngợi quyền năng cao cả của Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 21:9 Khi Ngài … trong lửa Hay “Ngài sẽ khiến vua như lò lửa cháy khi Ngài đến giúp vua. Và trong cơn giận Ngài, CHÚA sẽ tuyệt diệt chúng.”