Add parallel Print Page Options

Kiểm kê dân số

26 Sau trận dịch lớn đó CHÚA bảo Mô-se và Ê-lê-a-sa, con A-rôn là thầy tế lễ rằng, “Hãy kiểm kê dân số Ít-ra-en theo gia đình. Kiểm kê tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân ngũ Ít-ra-en.”

Mô-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ nói với dân chúng trong đồng bằng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô rằng, “Hãy đếm tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, theo như CHÚA truyền dặn Mô-se.” Sau đây là những người Ít-ra-en đã ra khỏi Ai-cập:

Chi tộc Ru-bên, con trưởng nam của Ít-ra-en, được kiểm kê.

Ha-nóc sinh ra dòng họ Ha-nóc;

Ba-lu sinh ra dòng họ Ba-lu;

Hết-rôn sinh ra dòng họ Hết-rôn;

Cát-mi sinh ra dòng họ Cát-mi.

Đó là tất cả các dòng họ của Ru-bên, tổng cộng 43.730 đàn ông.

Con trai của Ba-lu là Ê-li-áp, các con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram cầm đầu những người nổi loạn chống Mô-se và A-rôn, đi theo Cô-ra phản nghịch lại CHÚA. 10 Đất hả miệng nuốt họ và Cô-ra; họ chết một lượt với 250 người bị lửa thiêu. Đó là dấu hiệu cảnh cáo, 11 nhưng các con Cô-ra không chết.

12 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Xi-mê-ôn:

Nê-mu-ên sinh ra dòng họ Nê-mu-ên;

Gia-min sinh ra dòng họ Gia-min;

Gia-kin sinh ra dòng họ Gia-kin;

13 Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra;

Sa-un sinh ra dòng họ Sa-un.

14 Đó là tất cả các dòng họ Xi-mê-ôn; tổng cộng là 22.200 đàn ông.

15 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Gát:

Xê-phôn sinh ra dòng họ Xê-phôn;

Ha-ghi sinh ra dòng họ Ha-ghi;

Su-ni sinh ra dòng họ Su-ni;

16 Ốt-ni sinh ra dòng họ Ốt-ni;

Ê-ri sinh ra dòng họ Ê-ri;

17 từ A-rô-đi có dòng họ A-rô-đi;

từ A-rê-li có dòng họ A-rê-li.

18 Đó là tất cả những dòng họ đàn ông.

19 Hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã chết trong xứ Ca-na-an. 20 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Giu-đa:

Sê-la sinh ra dòng họ Sê-la;

Phê-rê sinh ra dòng họ Phê-rê;

Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra.

21 Sau đây là những dòng họ Phê-rê:

Hết-rôn sinh ra dòng họ Hết-rôn;

Ha-mun sinh ra dòng họ Ha-mun.

22 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Giu-đa, tổng cộng là 76.500 đàn ông.

23 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Y-xa-ca:

Thô-la sinh ra dòng họ Thô-la;

Bu-a sinh ra dòng họ Bu-a;

24 Gia-súp sinh ra dòng họ Gia-súp;

Sim-rôn sinh ra dòng họ Sim-rôn.

25 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Y-xa-ca tổng cộng 64.300 đàn ông.

26 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Xê-bu-lôn:

Xê-rết sinh ra dòng họ Xê-rết;

Ê-lôn sinh ra dòng họ Ê-lôn;

Gia-lê-ên sinh ra dòng họ Gia-lê-ên.

27 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Xê-bu-lôn, tổng cộng 60.500 đàn ông.

28 Sau đây là các dòng họ thuộc Giô-xép qua Ma-na-xe và Ép-ra-im. 29 Các dòng họ sau đây thuộc Ma-na-xe:

Ma-kia sinh ra dòng họ Ma-kia (Ma-kia là cha của Ghi-lê-át);

Ghi-lê-át sinh ra dòng họ Ghi-lê-át.

30 Sau đây là các dòng họ xuất thân từ Ghi-lê-át:

Y-ê-xe sinh ra dòng họ Y-ê-xe;

Hê-léc sinh ra dòng họ Hê-léc;

31 Át-ri-ên sinh ra dòng họ Át-ri-ên;

Sê-chem sinh ra dòng họ Sê-chem;

32 Sê-mi-đa có dòng họ Sê-mi-đa;

Hê-phe sinh dòng họ Hê-phe.

33 Xê-lô-phê-hát, con trai Hê-phe không có con trai; chỉ có con gái tên là Ma-la, Nô-ê, Hóc-la, Minh-ca và Thiệt-xa.

34 Đó là tất cả các dòng họ Ma-na-xe, tổng cộng 52.700 đàn ông.

35 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Ép-ra-im:

Su-thê-la sinh dòng họ Su-thê-la;

Bê-ke sinh dòng họ Bê-ke;

Ta-han sinh dòng họ Ta-han.

36 Sau đây là dòng họ Su-thê-la:

Ê-ran sinh dòng họ Ê-ran.

37 Đó là tất cả các dòng họ Ép-ra-im, tổng cộng 32.500 đàn ông. Đó là các dòng họ xuất xứ từ Giô-xép.

38 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Bên-gia-min:

Bê-la sinh dòng họ Bê-la;

Ách-bên sinh dòng họ Ách-Bên;

A-hi-ram sinh dòng họ A-hi-ram;

39 Su-pham sinh dòng họ Su-pham;

Hu-pham sinh dòng họ Hu-pham.

40 Sau đây là các dòng họ Bê-la: Át-đơ và Na-a-man.

Át-đơ sinh dòng họ Át-đơ;

Na-a-man sinh dòng họ Na-a-man.

41 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Bên-gia-min, tổng cộng 45.600 đàn ông.

42 Sau đây là dòng họ thuộc chi tộc Đan:

Su-ham sinh dòng họ Su-ham.

Đó là gia đình của Đan, 43 và tổng số người đàn ông trong dòng họ Su-ham thuộc Đan là 64.400 người.

44 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc A-se:

Im-na sinh dòng họ Im-na;

Ích-vi sinh dòng họ Ích-vi;

Bê-ri-a sinh dòng họ Bê-ri-a.

45 Sau đây là các dòng họ xuất xứ từ Bê-ri-a:

Hê-be sinh dòng họ Hê-be;

Manh-kiên sinh dòng họ Manh-kiên.

46 (A-se cũng có một người con gái tên Xê-ra.)

47 Đó là tất cả các dòng họ thuộc A-se, tổng cộng là 53.400 đàn ông.

48 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Nép-ta-li:

Gia-xên sinh dòng họ Gia-xên;

Gu-ni sinh dòng họ Gu-ni;

49 Giê-xe sinh dòng họ Giê-xe;

Si-lem sinh dòng họ Si-lem.

50 Đó là tất cả các dòng họ thuộc chi tộc Nép-ta-li tổng cộng 45.400 đàn ông.

51 Như thế tổng số đàn ông trong Ít-ra-en là 601.730 người.

52 CHÚA bảo Mô-se, 53 “Hãy chia đất cho các người ấy theo số tên. 54 Chi tộc lớn sẽ nhận được nhiều đất hơn chi tộc nhỏ; diện tích đất mỗi chi tộc nhận được tùy vào số người của chi tộc đó. 55 Hãy chia bằng cách bắt thăm, và đất mà chi tộc nào nhận được sẽ mang tên chi tộc đó. 56 Chia đất giữa nhóm lớn và nhóm nhỏ bằng cách bắt thăm.”

57 Chi tộc Lê-vi cũng được kiểm kê. Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Lê-vi:

Ghẹt-sôn sinh dòng họ Ghẹt-sôn;

Cô-hát sinh dòng họ Cô-hát;

Mê-ra-rin sinh dòng họ Mê-ra-ri.

58 Sau đây cũng là dòng họ thuộc chi tộc Lê-vi:

dòng họ Líp-ni,

dòng họ Hếp-rôn,

dòng họ Ma-li,

dòng họ Mu-si,

và dòng họ Cô-ra.

(Cô-hát là ông tổ của Am-ram, 59 vợ Am-ram là Giô-kê-bết. Nàng thuộc chi tộc Lê-vi và sinh trưởng ở Ai-cập. Nàng và Am-ram có hai con trai: A-rôn, Mô-se, và một con gái là Mi-ri-am.

60 A-rôn là cha của Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết vì dâng loại lửa trái phép trước mặt CHÚA.)

62 Tổng số người nam thuộc chi tộc Lê-vi tuổi từ một tháng trở lên là 23.000 người nhưng họ không được tính chung vào các người Ít-ra-en khác vì họ không được cấp đất nào giữa vòng các người Ít-ra-en khác cả.

63 Mô-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa kiểm kê tất cả những người đó. Họ kiểm kê dân Ít-ra-en trong đồng bằng Mô-áp đối diện sông Giô-đanh nhìn qua Giê-ri-cô. 64 Mô-se và thầy tế lễ A-rôn đã kiểm kê dân Ít-ra-en trong sa mạc Si-nai nhưng không có ai được kiểm kê lần nầy trong đồng bằng Mô-áp nằm trong kỳ kiểm kê trước. 65 CHÚA đã bảo dân Ít-ra-en là tất cả đều sẽ chết trong sa mạc, chỉ có hai người còn sống sót là Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê và Giô-suê con trai của Nun mà thôi.

Các con gái của Xê-lô-phê-hát

27 Lúc đó các con gái của Xê-lô-phê-hát đến. Xê-lô-phê-hát là con trai của Hê-phe, cháu Ghi-lê-át, chắt Ma-kia, chít Ma-na-xe. Các con gái Xê-lô-phê-hát thuộc họ Ma-na-xe, con trai Giô-xép. Tên các cô gái đó là Ma-la, Nô-ê, Hóc-la, Minh-ca và Thiệt-xa. Các cô đến cửa Lều Họp đứng trước Mô-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các lãnh tụ, và toàn thể dân chúng.

Các cô thưa, “Cha chúng tôi đã chết trong sa mạc. Ông ấy không phải là một trong những kẻ theo phe Cô-ra phản nghịch lại CHÚA, nhưng ông chết vì tội mình, và không có con trai. Vì không có con trai cho nên tên của cha chúng tôi sẽ tiêu mất. Xin cấp cho chúng tôi tài sản giữa vòng thân nhân của cha chúng tôi.”

Mô-se trình trường hợp các cô lên CHÚA, CHÚA bảo ông rằng, “Các con gái Xê-lô-phê-hát có lý; chúng phải nhận được phần tài sản của cha chúng. Hãy cấp cho chúng tài sản giữa vòng thân nhân của cha chúng.

Hãy bảo người Ít-ra-en: Nếu người nào chết không có con trai thì tất cả tài sản [a] người sẽ về con gái người ấy. Nếu người không có con gái thì tất cả tài sản người sẽ về anh em người. 10 Nếu người không có anh em thì tất cả tài sản người sẽ về chú bác người. 11 Và nếu cha người không có anh em thì tất cả tài sản người sẽ về thân nhân gần nhất trong dòng họ. Đây là qui tắc cho dân Ít-ra-en, theo như mệnh lệnh CHÚA truyền dặn Mô-se.”

Giô-suê được cử làm lãnh tụ

12 Sau đó CHÚA bảo Mô-se, “Hãy leo lên núi A-ba-rim nầy và nhìn khắp xứ mà ta đã cho dân Ít-ra-en. 13 Sau khi nhìn thấy xứ đó, con sẽ qua đời về với tổ tiên như A-rôn anh con, 14 vì hai con hành động nghịch lại mệnh lệnh ta trong sa mạc Xin. Con không tôn ta là thánh trước mặt dân chúng nơi các suối Mê-ri-ba [b].” (Tức là các suối Mê-ri-ba ở Ca-đe trong sa mạc Xin.)

15 Mô-se thưa cùng CHÚA, 16 “CHÚA là Thượng Đế của tất cả thần linh trong mọi người. Xin Ngài chọn một lãnh tụ để hướng dẫn dân nầy, 17 Người sẽ đi vào ra trước mặt họ. Người sẽ dẫn họ ra như đàn chiên và mang họ vào; dân chúng của CHÚA chẳng nên như chiên không có người chăn.”

18 Vì vậy CHÚA bảo Mô-se, “Hãy chọn Giô-suê, con trai của Nun, vì Thần linh ta ở trong người. Hãy đặt tay con trên người, 19 bảo người đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả dân chúng. Rồi ra lệnh cho người trước sự chứng kiến của họ.

20 Hãy san sẻ quyền lực của con cho người, để dân Ít-ra-en vâng lời người. 21 Người phải đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, rồi Ê-lê-a-sa sẽ dùng U-rim tìm biết ý CHÚA. Dân Ít-ra-en sẽ đi ra theo lệnh người, và sẽ đi vào cũng theo lệnh người.”

22 Mô-se làm theo mọi điều CHÚA bảo mình. Ông mang Giô-suê ra đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả dân chúng, 23 rồi đặt tay trên người và truyền lệnh, như CHÚA đã dặn ông.

Của lễ hằng ngày

28 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy truyền lệnh nầy cho dân Ít-ra-en. Bảo họ: Hãy mang đến cho ta của lễ bằng thức ăn nướng trong lửa để có mùi thơm làm vừa lòng ta, và phải đem đúng giờ đã định. Hãy bảo họ: Sau đây là những của lễ mà các ngươi phải đem đến cho CHÚA: Hai con chiên con một tuổi làm của lễ thiêu mỗi ngày. Các con chiên đó không được có tật nguyền. Buổi sáng dâng một con, chạng vạng dâng một con. Ngoài ra cũng phải mang của lễ chay gồm hai lít bột mịn trộn với ba phần tư lít dầu ô-liu ép. Đó là của lễ thiêu dâng hằng ngày, bắt đầu tại núi Si-nai; mùi thơm từ của lễ thiêu sẽ làm vừa lòng CHÚA. Hãy dâng ba phần tư lít rượu cùng với mỗi con chiên để làm của lễ uống; đổ rượu đó ra cho CHÚA tại Nơi Thánh. Hãy dâng con chiên thứ nhì vào lúc chạng vạng. Cũng phải làm giống như buổi sáng, tức là dâng của lễ chay và của lễ uống. Của lễ đó phải dâng bằng lửa, có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA.

Của lễ ngày Sa-bát

Vào ngày Sa-bát, các ngươi phải dâng hai con chiên con một tuổi không tật nguyền. Ngoài ra cũng phải dâng của lễ uống và của lễ chay; của lễ chay gồm bốn lít rưỡi bột mịn trộn với dầu ô-liu. 10 Đó là của lễ thiêu cho mỗi ngày Sa-bát, ngoài của lễ thiêu và của lễ uống hằng ngày.

Của lễ hằng tháng

11 Vào ngày đầu mỗi tháng hãy mang của lễ thiêu đến cho CHÚA. Của lễ đó gồm hai con bò đực tơ, một con chiên đực, bảy con chiên con một tuổi, tất cả không được có tật nguyền. 12 Dâng của lễ chay với mỗi con bò đực tơ chung với sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. Ngoài ra cũng phải dâng của lễ chay chung với con chiên đực. Của lễ đó gồm bốn lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. 13 Cũng phải dâng của lễ chay với mỗi con chiên con, của lễ gồm có hai lít bột mịn trộn dầu ô-liu. Đó là của lễ thiêu, có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA. 14 Của lễ uống dâng với mỗi con bò tơ đực gồm hai lít rưỡi rượu, còn với mỗi con chiên đực thì một lít, và với mỗi con chiên con thì ba phần tư lít rượu. Đó là các của lễ phải dâng hằng tháng trong năm. 15 Ngoài của lễ thiêu và của lễ uống dâng hằng ngày, hãy mang một con dê làm của lễ chuộc tội đến cho CHÚA.

Lễ Vượt qua

16 Lễ Vượt Qua của CHÚA sẽ là ngày mười bốn tháng thứ nhất. 17 Lễ Bánh Không Men bắt đầu ngày mười lăm tháng đó. Trong bảy ngày các ngươi chỉ được phép ăn bánh mì không men. 18 Vào ngày đầu tiên của kỳ lễ phải có một buổi họp thánh. Đừng làm việc gì trong ngày ấy. 19 Hãy mang đến cho CHÚA một của lễ dâng bằng lửa, một của lễ thiêu gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực, và bảy con chiên con đực. Tất cả không được có tật nguyền. 20 Cùng với mỗi con bò tơ đực phải mang một của lễ chay gồm sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. Còn mỗi con chiên đực thì mang bốn lít rưỡi bột mịn trộn dầu. 21 Còn mỗi con chiên con phải mang hai lít bột mịn trộn dầu. 22 Hãy mang một con dê làm của lễ chuộc tội để làm sạch nơi thánh cho các ngươi. 23 Hãy mang các của lễ nầy ngoài các của lễ thiêu các ngươi dâng mỗi sáng.

24 Vậy mỗi ngày trong tuần phải mang thực phẩm để làm của lễ bằng lửa có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA. Đó là ngoài của lễ thiêu và của lễ uống hằng ngày. 25 Ngày thứ bảy các ngươi phải có một buổi họp thánh. Hãy nghỉ ngơi, đừng làm việc gì trong ngày ấy.

Lễ Các Tuần hay Lễ Mùa Gặt

26 Vào ngày sản vật đầu tiên khi các ngươi mang ngũ cốc mới đến cho CHÚA trong kỳ Lễ Các Tuần thì phải có một buổi họp thánh. Đừng làm việc gì trong ngày ấy. 27 Hãy mang của lễ thiêu sau đây đến cho CHÚA: hai con bò tơ đực, một con chiên đực, bảy con chiên con một tuổi. Mùi thơm của lễ sẽ làm vừa lòng CHÚA. 28 Ngoài ra cùng với mỗi con bò đực mang một của lễ chay gồm sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu. Cùng với mỗi con chiên đực mang bốn lít rưỡi bột mịn, 29 còn mỗi con chiên con thì mang hai lít bột mịn. 30 Dâng một con dê đực để làm sạch nơi thánh cho các ngươi. 31 Hãy mang các của lễ nầy và các của lễ uống ngoài của lễ thiêu và của lễ chay hằng ngày. Các thú vật đem dâng không được có tật nguyền.”

Footnotes

  1. Dân Số 27:8 tài sản Của hương hoả, đất đai …
  2. Dân Số 27:14 các suối Mê-ri-ba Hay “suối phản loạn.”

Hơn bốn ngàn người được thết đãi(A)

Lần khác có một đám đông đi theo Chúa Giê-xu mà không có gì ăn nên Ngài gọi các môn đệ lại bảo, “Ta tội nghiệp đoàn dân nầy, vì họ đã ở với ta hơn ba ngày nay mà không có gì ăn. Nếu ta cho họ về trong khi bụng đói thế nầy chắc có người sẽ bị xỉu dọc đường, vì một số đã đến từ những nơi khá xa.”

Các môn đệ Ngài thưa, “Làm sao chúng ta có đủ bánh cho chừng nầy người ăn? Nơi đây cũng không gần thị trấn nào.”

Chúa Giê-xu hỏi, “Các con có bao nhiêu ổ bánh?”

Họ thưa, “Dạ có bảy ổ.”

Chúa Giê-xu bảo dân chúng ngồi xuống đất. Rồi Ngài cầm bảy ổ bánh, cảm tạ Thượng Đế và bẻ bánh ra. Ngài trao bánh cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Các môn đệ cũng có vài con cá nhỏ. Sau khi cảm tạ Thượng Đế về mấy con cá, Ngài bảo các môn đệ phát cho dân chúng luôn. Mọi người ăn uống no nê. Các môn đệ gom được bảy giỏ đầy những miếng thừa. Có khoảng bốn ngàn người đàn ông ăn lần đó. Sau khi ăn xong, Ngài cho họ về. 10 Rồi Ngài cùng các môn đệ xuống thuyền đi qua miền Đan-ma-nu-tha.

Các nhà cầm quyền muốn xem một phép lạ(B)

11 Các người Pha-ri-xi đến gặp Chúa Giê-xu và bắt đầu gạn hỏi Ngài. Vì chủ tâm gài bẫy Ngài, nên họ yêu cầu Chúa Giê-xu làm một phép lạ từ trời cho họ xem. 12 Chúa Giê-xu thở dài bảo họ, “Sao các ông muốn xem phép lạ? Ta bảo thật, các ông sẽ không nhận được dấu lạ nào cả.” 13 Rồi Ngài bỏ họ, xuống thuyền sang bờ hồ bên kia.

Thận trọng về những lời giáo huấn sai lạc(C)

14 Các môn đệ chỉ đem theo có một ổ bánh trong thuyền; đáng lẽ họ phải mang theo nhiều hơn. 15 Chúa Giê-xu bảo họ, “Các con phải thận trọng về men của người Pha-ri-xi và men của Hê-rốt.”

16 Các môn đệ thảo luận với nhau về ý nghĩa của lời Ngài nói. Họ bảo, “Thầy nói vậy là vì chúng ta quên mang bánh theo.”

17 Biết họ bàn như thế nên Chúa Giê-xu hỏi, “Sao các con nói tại vì không mang bánh theo? Các con cũng còn chưa thấy và chưa hiểu sao? Trí óc các con vẫn còn tối tăm sao? 18 Các con có mắt mà vẫn không thấy, có tai mà không nghe. Các con còn nhớ những lần 19 ta chia năm ổ bánh cho năm ngàn người sao? Các con thu lại được bao nhiêu giỏ bánh thừa?”

Họ thưa, “Dạ, mười hai giỏ.”

20 “Còn khi ta phát bảy ổ bánh cho bốn ngàn người, các con gom được bao nhiêu giỏ bánh thừa?”

Họ thưa, “Dạ, bảy giỏ.”

21 Chúa Giê-xu bảo họ rằng, “Đến bây giờ các con cũng chưa hiểu sao?”

Chúa Giê-xu chữa lành người mù

22 Chúa Giê-xu cùng các môn đệ đến thành Bết-sai-đa. Người ta mang tới cho Ngài một người mù và xin Ngài đặt tay trên anh. 23 Chúa Giê-xu cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng. Sau khi nhổ nước miếng lên mắt và đặt tay trên anh, Ngài hỏi, “Bây giờ anh thấy được chưa?”

24 Anh ngước lên thưa, “Dạ, tôi thấy người ta nhưng họ đi giống như cây cối.”

25 Chúa Giê-xu lại đặt tay lên mắt anh. Anh mở mắt ra thì mắt được sáng, thấy rõ ràng tất cả. 26 Chúa Giê-xu bảo anh đi về nhà và dặn, “Đừng trở vào thành.”

Phia-rơ tuyên xưng Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế(D)

27 Chúa Giê-xu cùng môn đệ đi đến các thành quanh vùng Xê-xa-rê Phi-líp. Đang đi đường, Ngài hỏi các môn đệ, “Dân chúng nói ta là ai?”

28 Các môn đệ thưa, “Có người nói thầy là Giăng Báp-tít. Người khác nói thầy là Ê-li, còn người khác nữa thì cho thầy là một trong các nhà tiên tri.”

29 Nhưng Chúa Giê-xu hỏi, “Còn các con nói ta là ai?”

Phia-rơ đáp, “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

30 Chúa Giê-xu nghiêm cấm các môn đệ không được nói cho người nào biết Ngài là ai.

Chúa Giê-xu nói trước về cái chết của Ngài(E)

31 Rồi Chúa Giê-xu bắt đầu dạy họ rằng, “Con Người phải chịu khổ nhiều, còn bị các bô lão Do-thái, các giới trưởng tế cùng các giáo sư luật loại ra.” Ngài cũng cho biết thêm là Con Người sẽ bị giết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại từ trong kẻ chết. 32 Chúa Giê-xu nói rõ ràng cho các môn đệ biết những sự việc sẽ xảy ra. Phia-rơ liền mang Ngài riêng ra và trách Ngài. 33 Nhưng Chúa Giê-xu quay lại nhìn các môn đệ rồi quở Phia-rơ. Ngài bảo, “Nầy Sa-tăng [a], hãy đi khỏi mặt ta! Con không nghĩ đến việc Thượng Đế mà chỉ nghĩ đến những việc loài người thôi.”

34 Sau đó Chúa Giê-xu gọi quần chúng và các môn đệ lại, bảo rằng, “Ai muốn theo ta phải từ bỏ chính mình và vác thập tự giá mình mà theo ta. 35 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, sẽ bị mất nó, nhưng ai chịu mất mạng mình vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ giữ được mạng sống. 36 Nếu ai được cả thế giới mà mất linh hồn mình thì ích lợi gì? 37 Lấy gì mà đánh đổi linh hồn mình? 38 Ai xấu hổ về ta và lời dạy dỗ của ta giữa thế hệ dâm ô và tội lỗi nầy thì Con Người cũng sẽ xấu hổ về người ấy khi Ngài hiện đến trong vinh quang của Cha Ngài cùng với các thiên sứ thánh.”

Footnotes

  1. Mác 8:33 Sa-tăng Tên của ma quỉ, có nghĩa là “kẻ thù.” Chúa Giê-xu ngụ ý là Phia-rơ nói chuyện kiểu Sa-tăng.