Add parallel Print Page Options

Thời kỳ hạn hán

14 Lời của CHÚA phán cùng Giê-rê-mi về nạn hạn hán:

“Dân Giu-đa than khóc như có ai chết,
    các thành phố nó buồn thảm.
Chúng đau buồn về xứ sở mình.
    Có tiếng khóc than từ Giê-ru-sa-lem lên đến Thượng Đế.
Những kẻ quyền quí sai các tôi tớ mình đi tìm nước.
    Chúng đi đến các giếng,
    nhưng không tìm ra nước.
Nên chúng xách bình không đi về.
    Chúng cảm thấy xấu hổ ngượng ngùng, trùm đầu lại để che dấu.
Không ai cày bừa đất đai để trồng trọt [a].
    Đất khô cằn và nứt nẻ,
    vì không có mưa trong xứ.
Nông gia buồn bực lo lắng,
    nên trùm đầu để che dấu.
Thật vậy, đến nỗi nai cái trong đồng,
    cũng phải bỏ nai con lại cho chết,
    vì không có cỏ cho nó ăn.
Các con lừa hoang đứng trên các đồi trọc
    đánh hơi gió như chó rừng.
Nhưng mắt chúng bị mù lòa
    vì không có thức ăn.”

Chúng tôi biết vì tội lỗi mình
    mà chúng tôi phải chịu khổ sở.
Lạy CHÚA, xin hãy vì danh tốt Ngài mà cứu giúp chúng tôi.
Bao lần chúng tôi đã lìa bỏ Ngài;
    chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.
Lạy Thượng Đế, là nguồn Hi vọng của Ít-ra-en,
    Ngài đã giải cứu Ít-ra-en trong những lúc khốn khó.
Tại sao Ngài làm như khách lạ trong xứ,
    hay như lữ khách qua đêm?
Tại sao Ngài như kẻ bị tấn công bất thần,
    như chiến sĩ chẳng giải cứu được ai?
Nhưng lạy CHÚA, Ngài ở giữa chúng tôi,
    chúng tôi được gọi bằng danh Ngài
    xin đừng để chúng tôi tuyệt vọng!

10 CHÚA phán như sau về dân Giu-đa:

“Chúng muốn lìa xa ta; không ngần ngại lìa bỏ ta. Nên bây giờ CHÚA sẽ không chấp nhận chúng nó nữa. Ngài sẽ nhớ lại điều ác chúng làm và sẽ trừng phạt chúng vì tội lỗi chúng.”

11 Rồi CHÚA phán, “Chớ cầu những điều lành đến cho dân Giu-đa. 12 Dù cho chúng cữ ăn, ta sẽ không thèm nghe lời cầu nguyện của chúng. Dù cho chúng dâng của lễ thiêu và của lễ chay cho ta, ta cũng không chấp nhận chúng. Ngược lại, ta sẽ tiêu diệt dân Giu-đa bằng chiến tranh, đói kém, và dịch lệ.”

13 Tôi thưa, “Ôi, lạy Chúa là Thượng Đế, các nhà tiên tri vẫn trấn an dân chúng rằng, ‘Các ngươi sẽ không bị khốn khổ do gươm giáo của quân thù hay đói kém đâu. Ta là CHÚA sẽ ban hoà bình cho các ngươi trong xứ nầy.’”

14 Nhưng CHÚA phán cùng tôi, “Bọn tiên tri đó đang nhân danh ta mà nói tiên tri dối. Ta không sai, chỉ định hay phán cùng chúng. Chúng nói tiên tri theo những sự hiện thấy giả, sự thờ hình tượng, những trò ma thuật nhảm nhí, và ý tưởng ngông cuồng của chúng nó. 15 Cho nên ta phán như sau về những nhà tiên tri nói tiên tri trong danh ta. Ta không hề sai chúng nó. Chúng bảo, ‘Sẽ không có kẻ thù nào dùng gươm tấn công chúng ta. Sẽ không có đói kém trong xứ.’ Cho nên chính chúng nó sẽ chết đói và ngã dưới lưỡi gươm quân thù. 16 Còn những kẻ được họ nói tiên tri sẽ bị ném trong các đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ chết vì đói và vì lưỡi gươm quân thù. Sẽ không có ai chôn chúng, vợ, con trai hay con gái chúng. Ta sẽ trừng phạt chúng.

17 Hỡi Giê-rê-mi, hãy loan báo điều nầy cho Giu-đa:
‘Mắt tôi sẽ đẫm lệ đêm ngày không ngưng.
    Tôi sẽ than khóc cho dân chúng yêu dấu của tôi [b].
Vì dân tôi đã lãnh một vố nặng nề,
    bị thương trầm trọng.
18 Nếu tôi đi vào vùng quê,
    tôi thấy người ta bị gươm giết.
Còn nếu đi vào thành,
    tôi thấy bệnh tật tràn lan,
    vì dân chúng không có thức ăn.
Cả thầy tế lễ lẫn các nhà tiên tri
    đều bị bắt đày sang xứ khác.’”

19 Lạy CHÚA, Ngài đã hoàn toàn từ bỏ dân Giu-đa sao?
    Ngài ghét Giê-ru-sa-lem sao?
Sao Ngài làm chúng tôi thương tổn quá mức
    đến nỗi không bình phục được?
Chúng tôi mong hoà bình,
    mà chẳng thấy có gì tốt đến.
Chúng tôi trông mong thời gian chữa trị,
    mà chỉ thấy kinh hoàng.
20 Lạy CHÚA, chúng tôi nhìn nhận mình gian ác,
    tổ tiên chúng tôi làm điều quấy.
Chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.
21 Vì chính mình Ngài, xin Ngài chớ ghét chúng tôi.
    Xin đừng cất danh dự Ngài khỏi ngôi vinh hiển Ngài.
Xin nhớ lại giao ước Ngài lập với chúng tôi,
    đừng phá giao ước ấy.
22 Các thần tượng ngoại quốc có quyền ban mưa xuống không?
    Bầu trời tự nó có quyền đổ mưa rào xuống không?
Lạy CHÚA, không! Chỉ một mình Ngài
    làm được điều đó thôi.
Ngài là niềm hi vọng duy nhất của chúng tôi,
    vì chính Ngài là Đấng làm những điều đó.

15 Sau đó CHÚA phán cùng tôi: “Dù cho Mô-se hay Sa-mu-ên cầu thay cho dân nầy, ta cũng sẽ không thương hại chúng. Hãy đuổi chúng ra khỏi mặt ta! Bảo chúng đi đi! Khi chúng hỏi, ‘Chúng tôi phải đi đâu?’ thì bảo, CHÚA phán:

Ai đã được định cho chết, sẽ chết.
Ai đã được định phải tử trận, sẽ tử trận.
Ai đã được định phải chết đói, sẽ chết đói.
Ai đã được định cho bị bắt làm tù binh,
    sẽ bị bắt làm tù binh.”
CHÚA phán,
    “Ta sẽ sai bốn loại hủy diệt đến với chúng.
Ta sẽ sai chiến tranh đến để giết chóc,
    chó để lôi các xác chết đi,
chim trời và thú rừng để ăn
    và tiêu diệt các xác chết.
Ta sẽ khiến dân Giu-đa trở thành nỗi kinh hoàng
    cho các dân trên đất
    vì những tội lỗi Ma-na-xe làm ở Giê-ru-sa-lem.
(Ma-na-xe, con của Ê-xê-chia trước kia làm vua Giu-đa.)

Hỡi Giê-ru-sa-lem, ai sẽ tội nghiệp cho ngươi?
    Ai sẽ buồn bã và than khóc cho ngươi?
    Ai sẽ chịu khó hỏi thăm ngươi?”
CHÚA phán, “Hỡi Giê-ru-sa-lem,
    ngươi đã lìa bỏ ta.
Ngươi càng ngày càng lìa xa ta,
    cho nên ta sẽ bắt và tiêu diệt ngươi.
Ta không còn tội nghiệp cho ngươi nữa.
Ta đã lấy chĩa ba phân chia dân Giu-đa ra,
    phân tán chúng nơi các cửa thành của xứ.
Ta đã tiêu diệt chúng và bắt con cái chúng đi,
    nhưng chúng không thay đổi nếp sống.
Số góa phụ chúng còn nhiều hơn cát ngoài biển.
Ta mang kẻ hủy diệt đến vào buổi trưa
    để giết hại các bà mẹ của trai tráng trong Giu-đa.
Bất thình lình ta mang đau khổ và sợ hãi đến trên chúng.
Khi kẻ thù tấn công và dùng gươm tàn sát,
Chúng sẽ giết mọi kẻ còn sống sót ở Giu-đa.
Một bà mẹ có bảy đứa con trai
    đều mất cả bảy đứa.
Bà ta sẽ kêu khóc đến nỗi kiệt lực.
    Bà sẽ đau buồn và hoang mang,
vì ngày tươi sáng của bà
    đã hoá ra đen tối buồn thảm [c].”
CHÚA phán vậy.

Lời phàn nàn thứ hai của Giê-rê-mi

10 Mẹ ơi, tội nghiệp mẹ đã sinh ra con
    vì con phải tố cáo và lên án cả xứ.
Con không cho ai vay hoặc mượn ai điều gì,
    vậy mà ai nấy đều nguyền rủa con.
11 CHÚA phán, “Ta đã cứu ngươi vì có lý do.
Ta đã khiến các kẻ thù ngươi van xin ngươi,
    lúc gặp thảm họa và khốn đốn.

Chúa trả lời cho Giê-rê-mi

12 Các ngươi là sắt và đồng có thể đập bể
    miếng sắt hoặc đồng đến từ phương Bắc hay không? [d]
13 Còn về của cải và châu báu ngươi
    ta sẽ biếu không cho kẻ khác,
    vì cả xứ, toàn dân Giu-đa đã phạm tội.
14 Ta sẽ khiến các ngươi làm tôi mọi
    cho kẻ thù trong một xứ mà ngươi chưa hề biết.
Cơn thịnh nộ ta như lửa nóng,
    sẽ thiêu đốt các ngươi.”

15 Lạy CHÚA, Ngài hiểu.
    Xin nhớ lại tôi và chăm sóc tôi.
Xin hãy trừng phạt những kẻ làm hại tôi.
    Xin đừng tiêu diệt tôi
    trong khi Ngài kiên nhẫn với chúng.
Xin suy nghĩ đến sự hổ nhục tôi chịu vì Ngài.
16 Lời CHÚA phán cùng tôi,
    tôi cố gắng lắng nghe kỹ.
Lời Ngài khiến tôi vui mừng,
    vì tôi được gọi bằng danh Ngài,
CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng.
17 Tôi không ngồi chung với đám đông
    khi chúng cười đùa vui vẻ.
Tôi ngồi một mình vì Ngài bảo tôi,
    và Ngài khiến cho tôi tức giận
    vì những điều ác quanh tôi.
18 Tôi không hiểu tại sao nỗi đau khổ tôi không dứt.
    Tôi không hiểu tại sao vết thương tôi không lành.
Ngươi sẽ giống như suối cạn chăng?
    Ngươi sẽ giống như suối ngưng chảy chăng?

19 Nên CHÚA phán như sau:
    “Nếu các ngươi thay đổi lối sống và trở về cùng ta,
    ta sẽ tiếp nhận các ngươi.
Rồi các ngươi sẽ phục sự ta.
Nếu các ngươi nói những điều đáng nói,
    không nói những điều nhảm nhí,
    thì các ngươi có thể thưa với ta.
Hãy để dân Giu-đa quay về cùng ngươi,
    nhưng ngươi không nên giống như chúng.
20 Ta sẽ khiến ngươi vững mạnh
    như vách thành cho dân nầy,
    chắc chắn như tường đồng.
Chúng sẽ đánh ngươi,
    nhưng sẽ không thắng nổi ngươi,
    vì ta ở cùng ngươi.
Ta sẽ giải cứu ngươi,” CHÚA phán vậy.
21 “Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi dân độc ác
    và cứu ngươi khỏi những kẻ hung bạo nầy.”

Ngày thảm họa

16 Rồi CHÚA phán cùng tôi như sau: “Ngươi không nên kết hôn hay sinh con trai con gái trong nơi nầy.”

CHÚA phán như sau về con trai con gái sinh ra trong xứ nầy và về cha mẹ chúng: “Chúng sẽ chết vì dịch lệ, sẽ không ai than khóc hay chôn cất chúng. Xác chúng sẽ nằm la liệt trên đất như phân. Chúng sẽ chết trận hay chết đói. Thây chúng sẽ làm thức ăn cho chim trời và muông thú.”

Cho nên CHÚA phán như sau: “Hỡi Giê-rê-mi, đừng đi vào nhà đang khi người ta đang ăn tiệc đưa ma. Đừng đi vào đó mà than khóc cho người chết hay chia buồn với chúng vì ta đã lấy lại ơn phước, tình yêu và lòng thương hại của ta cho dân nầy,” CHÚA phán vậy.

Những kẻ quyền quí hay thứ dân đều sẽ chết trong xứ Giu-đa. Không ai chôn cất hay than khóc cho chúng, cũng không ai rạch thân mình hay cạo đầu để tỏ dấu buồn rầu cho chúng. Không ai mang thức ăn đến để an ủi kẻ than khóc người quá cố. Không ai mời nước uống để an ủi những kẻ có cha mẹ qua đời.

Đừng đi vào nhà nào đang ăn uống để ngồi mà ăn uống chung với họ, vì CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: Ta sẽ sớm chấm dứt tiếng vui mừng hớn hở, cùng tiếng hân hoan của cô dâu và chú rể trong nơi nầy. Việc đó sẽ diễn ra trong đời ngươi.

10 Khi ngươi bảo dân Giu-đa biết những điều nầy thì chúng sẽ hỏi ngươi: Tại sao CHÚA giáng những thảm hoạ nầy đến trên chúng ta? Chúng ta đã làm điều gì quấy? Chúng ta đã phạm tội gì nghịch lại CHÚA là Thượng Đế chúng ta? 11 Hãy đáp cùng chúng: Vì tổ tiên các ngươi đã lìa bỏ ta, CHÚA phán vậy. “Chúng đã đi theo các thần khác, phục vụ và bái lạy chúng. Tổ tiên các ngươi đã bỏ ta, không vâng theo lời giáo huấn ta. 12 Nhưng các ngươi còn làm ác hơn tổ tiên mình nữa. Các ngươi ương ngạnh và làm theo ý mình; các ngươi không vâng lời ta. 13 Cho nên ta sẽ ném các ngươi ra khỏi xứ nầy và đày các ngươi đi đến một xứ mà các ngươi lẫn tổ tiên mình chưa hề biết. Nơi đó các ngươi sẽ phục vụ các thần khác ngày đêm vì ta sẽ không giúp cũng không làm ơn cho các ngươi nữa.”

14 Người ta bảo, “Thật như CHÚA hằng sống, Đấng mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập …” CHÚA phán, “Nhưng đến lúc người ta không nói như thế nữa. 15 Ngược lại họ sẽ nói, ‘Thật như CHÚA hằng sống, Đấng mang Ít-ra-en ra khỏi xứ miền Bắc và khỏi các xứ mà Ngài đã đày họ đến …’ Ta sẽ mang chúng trở về xứ mà ta đã ban cho tổ tiên chúng.”

16 CHÚA phán, “Ta sẽ sớm đưa những người đánh cá đến xứ nầy. Họ sẽ đánh lưới dân Giu-đa. Sau đó ta sẽ đưa nhiều thợ săn đến nữa [e]. Họ sẽ săn lùng dân Giu-đa trên mỗi ngọn núi và đồi và trong mỗi kẽ đá. 17 Ta thấy mọi điều chúng làm. Chúng không thể giấu khỏi ta điều gì; tội lỗi chúng không che được mắt ta. 18 Ta sẽ báo trả dân Giu-đa gấp đôi tội lỗi chúng phạm, vì chúng đã biến xứ ta ra nhơ nhớp. Chúng đã làm cho xứ ta tràn ngập thần tượng đáng gớm ghiếc.”

19 Lạy CHÚA, Ngài là sức mạnh và là nguồn bảo vệ tôi,
    nơi tôi trú ẩn an toàn trong lúc khốn khó.
Các dân trên thế giới sẽ đến cùng Ngài
    và thưa rằng, “Tổ tiên chúng tôi đã thờ thần giả,
    những thần vô ích chẳng giúp gì được cho họ.
20 Người ta có thể nào tạo ra thần cho mình không?
    Vì đó không phải là thần!”

21 CHÚA phán, “Cho nên ta sẽ dạy những kẻ tạo ra thần tượng.
Lần nầy ta sẽ dạy chúng biết
    về quyền năng và sức mạnh ta.
Rồi chúng sẽ biết rằng danh ta là CHÚA.”

Tấm lòng tội lỗi của Giu-đa

17 “Tội lỗi của Giu-đa được ghi bằng bút sắt.
Tội lỗi chúng được khắc vào đá
    tức tấm lòng của chúng.
Tội lỗi chúng được tạc vào các sừng
    bàn thờ [f] của chúng.
Bất cứ lúc nào con cái chúng
    cũng nhớ các bàn thờ cùng các thần tượng chúng,
và các tượng A-sê-ra bên cạnh các cây xanh trên các đồi cao.
Chúng nhớ những điều ấy
    trên các núi trong đồng trống.
Dân Giu-đa có nhiều châu báu.
    Nhưng ta sẽ trao những châu báu ấy vào tay người khác.
Chúng sẽ phá hủy những nơi cao
    trong xứ các ngươi,
vì các ngươi đã phạm tội bằng cách
    thờ phụng ở những nơi đó.
Các ngươi sẽ mất xứ mà ta ban cho các ngươi,
    đó là do lỗi các ngươi.
Ta sẽ để cho kẻ thù bắt các ngươi làm tôi mọi
    đày các ngươi đến xứ mình chưa hề biết.
Vì các ngươi đã chọc ta giận như lửa hừng,
    sẽ cháy mãi không thôi.”

Tin cậy người hay tin cậy Thượng Đế

CHÚA phán như sau:
    “Ai tin cậy loài người thì bị nguyền rủa,
ai trông cậy vào sức mạnh con người,
    tức lòng dạ xa rời CHÚA.
Chúng giống như bụi gai trong sa mạc
    mọc ở nơi đất hoang vu, nơi khô khan cằn cỗi.
Chúng không bao giờ biết
    những ơn lành từ Thượng Đế.
Nhưng ai tin cậy CHÚA sẽ được phước.
Ngài sẽ chứng tỏ cho người đó thấy rằng Ngài là Đấng đáng tin cậy.
Người đó sẽ lớn mạnh,
    như cây trồng gần dòng nước,
    đâm rễ mọc bên cạnh suối.
Dù cho trời nóng nực cũng không sao;
    lá nó vẫn xanh tươi.
Nó không lo năm hạn hán không mưa;
    luôn luôn ra trái.

Lòng con người ác độc hơn mọi thứ, không chữa trị được.
Không ai hiểu được.
10 Nhưng ta, Thượng Đế, nhìn vào trong lòng mỗi người,
    thử nghiệm tâm tư.
Để quyết định cho họ điều họ đáng lãnh;
    cấp cho họ phần thưởng phạt tương xứng.”

11 Như chim ấp trứng mình không đẻ,
    kẻ làm giàu nhờ lường gạt cũng vậy.
Khi xong nửa đời người, chúng sẽ mất hết của cải.
    Rồi đến cuối đời, chúng sẽ thấy rõ mình dại dột.

12 Từ ban đầu, đền thờ chúng ta được tôn trọng
    như ngôi vinh hiển của Thượng Đế.
13 Lạy CHÚA, nguồn hi vọng của Ít-ra-en,
    những kẻ lìa bỏ Ngài sẽ bị xấu hổ.
Còn những ai xa lìa CHÚA
    sẽ giống như tên viết trên cát [g],
vì chúng đã lìa bỏ CHÚA, suối nước hằng sống.

Lời phàn nàn thứ ba của Giê-rê-mi

14 Lạy CHÚA, xin chữa cho tôi thì tôi sẽ được lành.
    Xin cứu tôi thì tôi sẽ được giải cứu thật.
    Vì Ngài là Đấng tôi ca ngợi.
15 Ngài phải biết rằng dân Giu-đa cứ theo hỏi tôi,
    “Lời của CHÚA đâu?
Để xem lời phán đó có thành sự thật không!”

16 Lạy CHÚA, tôi không trốn tránh
    trách nhiệm chăn bầy [h] CHÚA giao.
Tôi không muốn thấy ngày kinh khủng đó đến.
    Ngài biết hết mọi điều tôi nói;
Ngài thấy mọi điều xảy ra.
17 Xin đừng làm tôi kinh hoàng.
    Tôi chạy đến Ngài tìm chỗ trú ẩn lúc khốn đốn.
18 Xin hãy khiến những kẻ hại tôi bị xấu hổ,
    nhưng xin đừng mang xấu hổ đến cho tôi.
Xin khiến chúng bị kinh hoàng,
    nhưng đừng để tôi bị khủng hoảng.
Xin mang ngày thảm họa đến trên kẻ thù tôi.
    Xin hãy tiêu diệt chúng, và diệt tận gốc.

Hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh

19 CHÚA phán cùng tôi như sau: “Hãy đến đứng nơi Cổng Dân Chúng [i] của thành Giê-ru-sa-lem nơi các vua Giu-đa hay ra vào. Rồi đi đến tất cả các cổng khác của Giê-ru-sa-lem.

20 Bảo họ như sau: ‘Hỡi các vua Giu-đa, hỡi tất cả dân Giu-đa và những người sống trong Giê-ru-sa-lem đi qua các cổng nầy để vào thành, hãy nghe lời CHÚA phán. 21 CHÚA phán như sau: Hãy cẩn thận đừng mang đồ gì trong ngày Sa-bát hay mang qua các cổng của Giê-ru-sa-lem. 22 Đừng mang vật gì ra khỏi nhà các ngươi cũng đừng làm việc ngày đó nhưng hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh như ta đã truyền dặn tổ tiên các ngươi. 23 Nhưng tổ tiên các ngươi không nghe cũng không để ý đến ta. Chúng rất ương ngạnh và không vâng lời. Ta trừng phạt chúng nhưng không kết quả. 24 Nhưng các ngươi hãy cẩn thận vâng lời ta, CHÚA phán vậy. Các ngươi không nên mang đồ gì qua cổng thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, mà hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh và đừng làm việc gì hết trong ngày đó.

25 Nếu các ngươi vâng theo mệnh lệnh nầy thì các vua ngồi trên ngôi Đa-vít sẽ cùng các quần thần đi qua các cổng thành Giê-ru-sa-lem. Họ sẽ đi qua, cỡi quân xa và cỡi ngựa cùng với dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Còn thành Giê-ru-sa-lem sẽ có dân cư sống ở đó mãi mãi. 26 Từ các làng quanh đó dân chúng đổ về Giê-ru-sa-lem, từ các thị trấn trong Giu-đa, xứ Bên-gia-min [j], từ các vùng đồi phía Tây, từ vùng núi và từ miền Nam Giu-đa. Mọi người sẽ mang đến đền thờ CHÚA các của lễ thiêu, các sinh tế, của lễ chay, trầm hương, và các của lễ cảm tạ cho Thượng Đế.

27 Nhưng các ngươi phải vâng lời ta và giữ ngày Sa-bát ra thánh. Các ngươi không được mang đồ gì vào Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Nếu các ngươi không vâng lời ta, ta sẽ khơi lửa nơi cửa thành Giê-ru-sa-lem và đốt cháy cho đến khi thiêu rụi các tháp kiên cố nhất. Sẽ không ai dập tắt nổi.’”

Footnotes

  1. Giê-rê-mi-a 14:4 Không ai … trồng trọt Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp. Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy.
  2. Giê-rê-mi-a 14:17 dân chúng yêu dấu của tôi Nguyên văn, “con gái đồng trinh là dân chúng của tôi.”
  3. Giê-rê-mi-a 15:9 vì ngày tươi sáng … buồn thảm Nguyên văn, “Đang trưa bỗng hóa ra đêm tối.”
  4. Giê-rê-mi-a 15:12 Các ngươi … hay không? Câu nầy trong nguyên văn Hê-bơ-rơ không rõ nghĩa.
  5. Giê-rê-mi-a 16:16 Ta sẽ … đến nữa Đây có nghĩa là những quân lính thù nghịch từ Ba-by-lôn đến.
  6. Giê-rê-mi-a 17:1 sừng bàn thờ Các góc của bàn thờ có hình giống cái sừng. Huyết của các con sinh tế được bôi trên các sừng ấy. Giê-rê-mi có lẽ ám chỉ rằng tội lỗi của dân chúng khiến cho các bàn thờ không còn xứng đáng để dâng sinh tế nữa.
  7. Giê-rê-mi-a 17:13 tên viết trên cát Nghĩa là “ngắn ngủi, không lâu.” Câu nầy có thể nghĩa là tên của người được viết trong danh sách những người sắp chết, hoặc đời sống người ấy sắp chấm dứt như chữ viết trên cát bị nước xóa đi.
  8. Giê-rê-mi-a 17:16 chăn bầy Dân Chúa đôi khi được ví như “chiên,” và người chăm sóc chiên được gọi là “người chăn bầy.”
  9. Giê-rê-mi-a 17:19 Cổng Dân Chúng Đây có thể là một trong những cổng đi vào thành Giê-ru-sa-lem hoặc một trong những cổng phía Nam đi vào đền thờ mà những người không phải thầy tế lễ dùng để vào.
  10. Giê-rê-mi-a 17:26 xứ Bên-gia-min Xứ Bên-gia-min nằm về phía Bắc của xứ Giu-đa.