Add parallel Print Page Options

Ít-ra-en, vườn nho của Chúa

Tôi sẽ hát cho bạn yêu dấu tôi về vườn nho của anh ấy.

Bạn yêu dấu tôi có một vườn nho trên một sườn đồi phì nhiêu.
Anh đào và dọn hết sỏi đá trong vườn và trồng loại nho tốt nhất trong đó.
Anh xây một cái tháp ở giữa vườn
    và xây một cái bàn ép rượu.
Anh hi vọng loại nho tốt sẽ mọc trong vườn,
    nhưng hóa ra toàn loại nho xấu mọc thôi.

Bạn yêu dấu tôi bảo,
    “Hỡi các ngươi là kẻ sống trong Giê-ru-sa-lem và dân cư Giu-đa [a],
    hãy phân xử giữa ta và vườn nho ta.
Có điều gì tốt mà ta không làm cho vườn nho ta không?
    Tại sao ta mong nho tốt mọc lên,
    thì toàn thấy nho xấu?

Bây giờ ta sẽ cho các ngươi biết điều ta sẽ làm cho vườn nho ta:
    Ta sẽ tháo bỏ hàng rào,
thì nó sẽ bị đốt cháy.
    Ta sẽ phá bỏ tường ngăn,
thì nó sẽ bị dẫm lên.
Ta sẽ tiêu hủy vườn nho,
    không thèm tỉa sửa và vun xén,
để cho cỏ dại tha hồ mọc.
    Ta sẽ bảo mây đừng mưa xuống trên nó.”

Vườn nho của CHÚA Toàn Năng là dân Ít-ra-en; vườn nho mà Ngài yêu thích là dân Giu-đa [b].

Ngài tìm điều công chính,
    thì chỉ thấy giết chóc.
Ngài tìm nếp sống phải chăng,
    thì chỉ thấy tiếng kêu đau thương.

Khốn cho các ngươi là kẻ tậu thêm nhà cửa, mua sắm thêm ruộng nương cho đến nỗi không còn gì cho kẻ khác nữa. Rồi chỉ có các ngươi là còn sót lại trong xứ. CHÚA Toàn Năng phán với ta như sau: “Những nhà cửa xinh đẹp sẽ bị tiêu hủy; những nhà cửa to lớn sang trọng sẽ bị bỏ hoang. 10 Lúc đó vườn nho rộng mười sào chỉ làm được hai mươi hai lít [c] rượu, và sáu thùng hột giống chỉ lên được hơn nửa thùng [d] ngũ cốc.”

11 Khốn cho những kẻ dậy sớm để tìm rượu mạnh, thức khuya vì say men rượu. 12 Trong tiệc tùng của chúng có tiếng đờn sắt, đờn cầm, trống cơm, sáo, và rượu. Chúng không thấy điều CHÚA làm, hay để ý đến công việc của tay Ngài.

13 Vì thế nên dân ta bị bắt và lưu đày, vì chúng không biết đến ta. Các dân lớn sẽ chết đói, và thường dân sẽ chết khát. 14 Cho đến nỗi âm phủ hả miệng thật rộng đòi thêm người chết mãi. Những người sang trọng trong Giê-ru-sa-lem và các thường dân sẽ cùng nhau đi xuống đó, cùng với những kẻ hân hoan và ồn ào.

15 Cho nên thường dân và quan trưởng sẽ phải cúi đầu, cảm thấy nhục nhã. 16 CHÚA Toàn Năng sẽ được vinh hiển vì phân xử công bằng; Thượng Đế thánh sẽ tỏ mình ra thánh bằng cách làm điều phải. 17 Rồi các chiên con sẽ ăn cỏ trong đồng mà những kẻ giàu có trước đây làm chủ.

18 Khốn thay cho những kẻ ấy!

Chúng kéo lê tội lỗi sau mình như người ta kéo các xe bằng dây thừng [e]. 19 Họ bảo, “Thượng Đế muốn vội vã thì vội vã; hãy để Ngài sớm thực hiện việc của Ngài cho chúng ta thấy. Hãy để cho chương trình của Đấng Thánh trên Ít-ra-en sớm diễn ra để chúng ta biết nó như thế nào.”

20 Khốn cho các kẻ gọi lành là dữ và gọi dữ là lành, bảo tối là sáng và sáng là tối, cho chua là ngọt và ngọt là chua. 21 Khốn cho những kẻ cho mình là khôn ngoan và nghĩ mình thông sáng. 22 Khốn cho kẻ nổi danh vì uống rượu và quán quân về hoà rượu. 23 Chúng nhận hối lộ để phóng thích kẻ có tội, và không để cho người lành được xét xử công bằng. 24 Chúng sẽ bị tiêu hủy như lửa thiêu đốt rơm hay cỏ khô. Chúng sẽ bị tiêu diệt như cây bị thúi rễ, và như hoa khô héo bị gió thổi bay đi như bụi bặm.

Chúng không chịu nghe lời giáo huấn [f] của CHÚA Toàn Năng và ghét sứ điệp từ Thượng Đế Thánh của Ít-ra-en. 25 Cho nên CHÚA đã nổi giận cùng dân Ngài, và giơ tay ra trừng phạt họ. Dù cho đến núi cũng kinh hoảng. Thây người nằm la liệt trên phố xá như rác rưởi. Nhưng CHÚA vẫn còn nổi giận; tay Ngài còn giơ ra để đánh phạt dân Ngài.

Thượng Đế sẽ mang quân lính đến trừng phạt Ít-ra-en

26 Ngài giương cờ cho các dân tộc ở xa.

Ngài huýt sáo gọi các dân tộc ở tận cùng quả đất. Kìa! Kẻ thù đang tràn tới! 27 Không một người nào trong chúng nó mệt mỏi hay vấp ngã. Không một ai trong chúng nó buồn ngủ hay ngủ gục. Không ai tháo vũ khí ra hay cởi dây giày. 28 Mũi tên chúng nó rất nhọn, và các cung chúng nó sẵn sàng để bắn. Vó ngựa chúng nó cứng như đá, và bánh quân xa chúng nó chạy mau như gió cuốn.

29 Tiếng hò hét chúng nó như tiếng gầm của sư tử; vang rền như sư tử con. Chúng gầm gừ khi bắt tù binh. Không ai ngăn chận khi chúng nó cướp tù binh đi. 30 Trong ngày đó chúng sẽ gầm thét như sóng biển. Và khi người ta nhìn vào xứ, họ chỉ thấy đen tối và đau khổ; ánh sáng chỉ còn là bóng tối trong đám mây dầy đặc nầy.

Ê-sai trở thành nhà tiên tri

Vào năm vua U-xia qua đời [g], tôi thấy CHÚA ngồi trên ngôi cao cả. Vạt áo Ngài phủ đầy đền thờ. Các thiên binh bằng lửa đứng phía trên Ngài. Mỗi thiên binh có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh che chân, và hai cánh dùng để bay. Các Xê-ra-phim kêu lên như sau: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là CHÚA Toàn Năng. Vinh hiển Ngài đầy dẫy đất.” Tiếng kêu của các Xê-ra-phim khiến mọi khung cửa rung chuyển, trong khi đền thờ dầy đặc khói [h].

Tôi kêu lên, “Thôi, đời tôi tàn rồi. Tôi không tinh sạch, ở giữa một dân không tinh sạch [i], nhưng tôi đã thấy Vua, là CHÚA Toàn Năng.”

Một trong các Xê-ra-phim dùng cái kẹp lấy than lửa đỏ nơi bàn thờ. Rồi người bay đến tôi trong tay cầm than lửa đỏ. Người lấy than lửa đụng vào môi tôi và bảo rằng, “Nầy, tội ngươi đã được tha vì than nầy đã chạm môi ngươi. Tội ngươi đã được xóa bỏ [j] rồi.”

Rồi tôi nghe tiếng CHÚA hỏi, “Ta sẽ sai ai đi? Ai bằng lòng đi cho chúng ta?”

Tôi liền thưa, “Có tôi đây. Xin Ngài hãy sai tôi!”

Rồi CHÚA phán, “Hãy đi bảo dân nầy như sau: ‘Các ngươi nghe thì nghe, nhưng không hiểu. Các ngươi nhìn thì nhìn, nhưng không học được.’ 10 Hãy làm cho trí dân nầy đần độn. Hãy bít lỗ tai chúng lại. Hãy bịt mắt chúng. Nếu không chúng sẽ hiểu điều mình thấy bằng mắt và nghe bằng tai. Trí chúng hiểu được rồi trở lại cùng ta để được chữa lành.”

11 Nên tôi hỏi, “Thưa CHÚA, tôi phải làm như thế nầy trong bao lâu?”

Ngài đáp, “Cho đến khi các thành bị tiêu diệt và dân cư không còn, cho đến khi các nhà cửa bỏ hoang không người ở, cho đến khi đất bị tiêu diệt và hoang phế.

12 CHÚA sẽ đày dân chúng đi rất xa, và đất sẽ bị bỏ hoang. 13 Một phần mười dân cư sẽ còn lại trong xứ, nhưng số đó cũng sẽ bị tiêu diệt luôn. Chúng như cây sồi còn lại gốc sau khi thân bị đốn xuống. Những người còn sót lại sẽ như gốc đâm chồi trở lại.”

Gặp khốn khó với A-ram

A-cha là con Giô-tham, cháu U-xia. Khi A-cha làm vua Giu-đa thì Rê-xin, vua A-ram và Bê-ca, con Rê-ma-lia [k], vua Ít-ra-en, kéo lên đánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ không chiếm nổi thành.

Nhà Đa-vít nhận tin báo rằng, “Các lực lượng của A-ram và Ít-ra-en đã liên kết nhau.” Khi nghe vậy, vua và toàn dân đều hoảng sợ. Họ run sợ như cây trong rừng bị gió thổi.

Sau đó CHÚA bảo Ê-sai, “Ngươi và Sê-a Gia-súp [l], con trai ngươi hãy đi gặp A-cha chỗ nước chảy vào hồ trên [m], nơi con đường dân chúng hay giặt đồ.

Bảo A-cha: Hãy cẩn thận. Hãy yên tâm đừng lo sợ. Đừng để hai người đó, A-ram và con Rê-ma-lia [n], khiến cho ngươi hoảng hốt. Đừng sợ cơn giận của chúng hay cơn giận của A-ram vì chúng chỉ như hai que gỗ cháy sắp tàn. Bọn A-ram đã lập kế hoạch cùng với Ép-ra-im và con trai Rê-ma-lia để hại ngươi, bảo rằng, ‘Chúng ta hãy tấn công Giu-đa và phá nó tan hoang. Chúng ta sẽ cùng nhau chia đất và lập con trai Ta-bên làm vua Giu-đa.’”

Nhưng ta, CHÚA và Thượng Đế phán, “‘Kế hoạch chúng nó sẽ không thành; việc đó sẽ không xảy ra, vì A-ram bị thành Đa-mách cai trị, còn Đa-mách thì bị Rê-xin cai trị. Trong sáu mươi lăm năm nữa Ép-ra-im sẽ không còn là một quốc gia nữa. Ít-ra-en bị thành Xa-ma-ri cai trị, và Xa-ma-ri thì bị con trai của Rê-ma-lia cai trị. Nếu ngươi không đủ niềm tin để đứng vững, ngươi sẽ không còn sức tồn tại lâu [o].’”

Em-ma-nu-ên, Thượng Đế ở với chúng ta

10 Rồi CHÚA phán cùng A-cha lần nữa rằng, 11 “Hãy xin một dấu hiệu từ CHÚA là Thượng Đế ngươi để cho ngươi tin rằng những điều nầy là thật. Có thể là dấu hiệu dưới âm phủ [p] hay trên trời cao kia [q].”

12 Nhưng A-cha đáp, “Tôi sẽ không xin dấu hiệu nào hay thử CHÚA.”

13 Ê-sai liền nói, “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe kỹ đây! Ngươi thử lòng kiên nhẫn của dân chúng chưa đủ sao? Tại sao ngươi còn muốn thử lòng kiên nhẫn của Thượng Đế ta? 14 Chính CHÚA sẽ ban cho ngươi một dấu hiệu:

Một thiếu nữ sẽ mang thai [r] và sinh ra một bé trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên [s].
15 Đứa trẻ sẽ ăn sữa đông và mật ong [t] trước khi nó biết bỏ điều ác
    và chọn điều lành.
16 Hiện nay ngươi đang sợ vua Ít-ra-en và A-ram.
    Nhưng trước khi đứa trẻ biết chọn điều lành và bỏ điều ác,
    thì xứ Ít-ra-en và A-ram sẽ bị hoang phế.

17 CHÚA sẽ mang khốn khó đến cho ngươi, dân tộc ngươi, và cho những người trong gia đình cha ngươi. Họ sẽ khốn khổ hơn bất cứ thời kỳ nào từ khi Ép-ra-im tách ra khỏi Giu-đa. CHÚA sẽ đưa vua A-xy-ri đến tấn công ngươi.

18 Lúc đó CHÚA sẽ huýt sáo gọi người Ai-cập, và chúng sẽ đến đông như ruồi từ các suối xa xăm của Ai-cập. Ngài sẽ gọi người A-xy-ri, và chúng sẽ tràn đến như ong. 19 Các quân thù nầy sẽ đóng quân trong hố sâu và trên ghềnh đá, gần các bụi cây, và nơi các giếng nước. 20 CHÚA sẽ thuê người A-xy-ri và dùng chúng như dao cạo để trừng phạt Giu-đa. Giống như CHÚA cạo trọc đầu, cạo lông [u] trên Giu-đa.

21 Lúc đó mỗi người chỉ có thể giữ một con bò cái tơ và hai con chiên còn sống thôi. 22 Chỉ có đủ sữa cho người đó ăn sữa đông. Ai còn sót trong xứ sẽ phải trở lại ăn sữa đông và mật ong. 23 Trong xứ nầy hiện nay đầy vườn nho và hàng ngàn dây nho, đáng giá hai mươi lăm cân bạc. Nhưng các vườn nho đó sẽ đầy cỏ dại và gai gốc. 24 Xứ sẽ trở thành hoang địa và chỉ dùng làm đất săn bắn. 25 Dân chúng trước kia làm lụng và trồng trọt hoa màu trên các sườn đồi nầy nhưng đến lúc đó họ sẽ không đến đó nữa vì đất sẽ đầy cỏ dại và gai gốc. Chỉ có chiên và trâu bò đến thôi.”

A-xy-ri sắp đến rồi

CHÚA bảo tôi, “Hãy lấy một bảng viết [v] và ghi trên đó bằng cây viết thường [w]: ‘Ma-hê Sa-lanh Hát-Bát.’ [x]

Tôi sẽ triệu tập một số nhân chứng đáng tin: U-ria, thầy tế lễ, và Xa-cha-ri, con Giê-bê-rê-kia.” Rồi tôi đi đến nhà của nữ tiên tri, nàng thụ thai và sinh một con trai. CHÚA bảo tôi, “Hãy đặt tên nó là Ma-hê Sa-lanh Hát-Bát, vì vua A-xy-ri sẽ cướp tất cả những tài sản của cải của Đa-mách [y] và Xa-ma-ri trước khi đứa trẻ biết kêu cha hay mẹ.”

CHÚA lại phán cùng tôi rằng, “Những người nầy [z] không chịu nhận nước chảy nhẹ từ hồ Xi-lôm [aa] và kinh khiếp vì Rê-xin và con trai Rê-ma-lia. Cho nên CHÚA tôi sẽ mang vua A-xy-ri cùng mọi đạo quân của người để nghịch lại chúng, giống như trận lụt ào ào đổ từ sông Ơ-phơ-rát xuống. Quân A-xy-ri sẽ giống như nước dâng lên từ bờ sông, chảy cả xứ. Nước đó sẽ tràn và chảy vào Giu-đa, ngập lên đến cổ nó,

Hỡi Em-ma-nu-ên [ab], đạo quân nầy sẽ giương cánh ra như chim cho đến khi bao phủ cả xứ.”

Hỡi các dân, hãy tan nát,
    hãy bể vụn ra từng miếng.
Hỡi các xứ xa xăm hãy nghe.
    Hãy chuẩn bị ra trận và hãy bể vụn ra!
Hãy chuẩn bị ra trận và hãy bể vụn ra!
10 Hãy lập kế hoạch đánh nhau nhưng các kế hoạch đó sẽ thất bại.
    Hãy ra lệnh cho đạo quân ngươi,
nhưng chúng sẽ vô dụng,
    vì Thượng Đế ở với chúng ta.

Lời cảnh cáo Ê-sai

11 CHÚA phán cùng ta bằng quyền năng Ngài và cảnh cáo [ac] ta chớ có theo đường lối của dân chúng. Ngài bảo, 12 “Dân chúng nói rằng những kẻ khác âm mưu nghịch họ, nhưng ngươi đừng tin chúng nó. Đừng sợ điều chúng sợ; và đừng kinh hãi những điều đó.

13 Nhưng hãy nhớ rằng CHÚA Toàn Năng là thánh. Ngài là Đấng ngươi phải sợ; Đấng ngươi nên kính nể [ad]. 14 Ngài sẽ làm nơi trú ẩn an toàn [ae] cho ngươi. Nhưng còn về hai gia tộc Ít-ra-en, Ngài sẽ như hòn đá gây vấp ngã, như tảng đá khiến người ta té nhào. Ngài như cái bẫy cho Giê-ru-sa-lem, khiến họ rơi vào. 15 Nhiều kẻ sẽ rơi trên tảng đá nầy. Họ sẽ rơi và bị dập nát; Họ sẽ rơi vào bẫy và bị sập.”

16 Hãy lập giao ước [af]. Hãy niêm phong lời giáo huấn trong khi các môn đệ ta đang nhìn.

17 Ta sẽ đợi CHÚA giúp chúng ta,
    CHÚA xấu hổ về gia đình Ít-ra-en.
    Ta sẽ trông đợi Ngài.

18 Ta đang đứng đây. Cùng với ta là con cái CHÚA ban cho ta. Chúng ta là dấu hiệu và bằng cớ cho dân Ít-ra-en từ CHÚA Toàn Năng, Đấng ngự trên núi Xi-ôn.

19 Có ngươi đề nghị, “Hãy đi hỏi bọn đồng bóng và thầy bói là những kẻ chuyên thì thầm và lẩm bẩm để biết phải làm gì.” Nhưng ta bảo các ngươi rằng nên cầu xin Thượng Đế giúp đỡ. Tại sao người sống mà lại đi hỏi người chết? 20 Các ngươi phải vâng theo lời giáo huấn và giao ước [ag] với CHÚA. Bọn đồng bóng và thầy bói không thể nói ra lời của CHÚA, cho nên lời nói chúng chẳng ra gì. 21 Dân chúng đi lang thang khắp xứ, bị hoang mang và đói khổ. Khi họ đói họ đâm ra giận dữ và ngước lên nguyền rủa vua cùng Thượng Đế mình. 22 Chúng nhìn quanh, khắp xứ chỉ thấy khốn đốn, tăm tối, và bi thảm, cái bi thảm của dân bị buộc phải xa xứ.

Footnotes

  1. I-sai-a 5:3 dân cư Giu-đa Hay “các lãnh tụ của Giê-ru-sa-lem và lãnh tụ của Giu-đa …”
  2. I-sai-a 5:7 dân Giu-đa Đây có thể nghĩa là “vua Giu-đa” hay “dân chúng Giu-đa.”
  3. I-sai-a 5:10 hai mươi hai lít Nguyên văn, “một bát” (khoảng 22 lít).
  4. I-sai-a 5:10 thùng Nguyên văn, “Một ô-me hột giống chỉ mọc lên được một ê-pha lúa.” Một ô-me có khoảng 6 thùng (220 lít). Một ê-pha tương đương với hai phần ba thùng (khoảng 22 lít.)
  5. I-sai-a 5:18 dây thừng Nguyên văn, “dây thừng vô dụng.” Tiếng Hê-bơ-rơ ở đây có nghĩa là “vật vô dụng,” tức là các thần tượng.
  6. I-sai-a 5:24 lời giáo huấn Đây cũng có nghĩa là “luật pháp” tức là luật mà Thượng Đế trao cho Mô-se để dạy dân Ít-ra-en.
  7. I-sai-a 6:1 Vào năm … qua đời Đây là khoảng năm 740 trước Công nguyên.
  8. I-sai-a 6:4 khói Chứng tỏ rằng Thượng Đế đang ngự trong đền thờ. Xem Xuất 40:34-35.
  9. I-sai-a 6:5 Tôi không tinh sạch … tinh sạch Nguyên văn, “Tôi là người có môi miệng dơ dáy ở giữa những người có môi miệng dơ dáy.”
  10. I-sai-a 6:7 xóa bỏ Hay “được chuộc” hoặc “được che dấu.”
  11. I-sai-a 7:1 Bê-ca, con Rê-ma-lia Một vua của xứ Ít-ra-en miền Bắc.
  12. I-sai-a 7:3 Sê-a Gia-súp Tên nầy nghĩa là “chỉ có một ít người trở về.”
  13. I-sai-a 7:3 hồ trên Có thể là hồ Xi-lôm nằm ở cuối thành Đa-vít, ngay phía trên hồ cũ mà nay gọi là Hồ Đỏ.
  14. I-sai-a 7:4 con Rê-ma-lia Tức Bê-ca, vua của xứ Ít-ra-en miền Bắc. Ông cai trị khoảng năm 740–731 trước Công nguyên.
  15. I-sai-a 7:9 Nếu ngươi … tồn tại lâu Đây là một lối chơi chữ có nghĩa là “Nếu ngươi không tin, thì cũng không ai tin ngươi.”
  16. I-sai-a 7:11 dấu hiệu dưới âm phủ Hay “Hãy làm cho lời thỉnh cầu của ngươi thật sâu.” Từ ngữ “thỉnh cầu” trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “âm phủ.”
  17. I-sai-a 7:11 dấu hiệu … trên trời cao kia Nguyên văn, “Hãy làm cho lời thỉnh cầu ngươi thật cao.”
  18. I-sai-a 7:14 Một thiếu nữ sẽ mang thai Hay “Hãy nhìn thiếu nữ đang mang thai.” Bản cổ Hi-lạp (mà sách Ma 1:23 trích dẫn) dịch là “trinh nữ” cho nên câu nầy đọc như sau, “Nầy một trinh nữ sẽ mang thai.”
  19. I-sai-a 7:14 Em-ma-nu-ên Nghĩa là “Thượng Đế ở với chúng ta.”
  20. I-sai-a 7:15 sữa đông và mật ong Đây muốn nói đến đồ ăn cứng lần đầu tiên cho em bé ăn. Đây cũng là loại đồ ăn mà người nghèo có thể ăn được. Xem câu 22.
  21. I-sai-a 7:20 cạo trọc đầu, cạo lông Nghĩa là dân Giu-đa sẽ bị sỉ nhục và bị đối xử như tôi mọi.
  22. I-sai-a 8:1 bảng viết Hay “cuộn giấy.”
  23. I-sai-a 8:1 cây viết thường Nguyên văn, “cây viết loài người dùng.” Có thể là loại viết dùng để khắc vào đất sét.
  24. I-sai-a 8:1 Ma-hê Sa-lanh Hát-Bát Nghĩa là “Sắp có việc cướp bóc và đánh cắp.”
  25. I-sai-a 8:4 Đa-mách Một thành phố trong xứ A-ram (nay là Xy-ri).
  26. I-sai-a 8:6 Những người nầy Có thể là những người Giu-đa muốn theo Rê-xin và Bê-va. Xem câu 11.
  27. I-sai-a 8:6 Xi-lôm Một đường dẫn nước từ suối Ghi-hôn đến một hồ nằm về phía Nam thành Đa-vít (Giê-ru-sa-lem). Đó là nơi những người thuộc gia đình Đa-vít được xức dầu để làm vua.
  28. I-sai-a 8:8 Hỡi Em-ma-nu-ên Hay “Hỡi Em-ma-nu-ên, chúng sẽ tràn ra khắp xứ ngươi.” Đây có thể là lời hứa của Thượng Đế để bảo vệ dân chúng của Ngài, hoặc là một lời cảnh cáo về quyền lực của A-xy-ri.
  29. I-sai-a 8:11 cảnh cáo Hay “ngăn cản.”
  30. I-sai-a 8:13 kính nể Hay “hãy xem là thánh.”
  31. I-sai-a 8:14 trú ẩn an toàn Hay “nơi thánh.”
  32. I-sai-a 8:16 Hãy lập giao ước Hay “Hãy viết giao ước.” Đây có thể là cuộn giấy lớn trong câu 1 hay lời hứa theo sau trong câu 17.
  33. I-sai-a 8:20 giao ước Thường có nghĩa là giao ước Thượng Đế lập với dân Ít-ra-en qua Mô-se. Ở đây có thể nghĩa là giao ước nói đến trong câu 17.