Add parallel Print Page Options

Quân A-xy-ri xâm chiếm Giu-đa

36 Trong năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia thì San-chê-ríp, vua A-xy-ri tấn công và chiếm lấy tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. Vua A-xy-ri phái viên tư lệnh tác chiến cùng với một đạo quân rất đông từ La-kích đến đánh vua Ê-xê-chia ở Giê-ru-sa-lem. Khi viên tư lệnh đến gần đường dẫn nước [a] từ hồ trên, [b] chỗ đường dân chúng hay giặt đồ thì dừng lại.

Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-ách đi ra gặp ông. Ê-li-a-kim, con Hinh-kia làm quản lý cung vua, Sếp-na là đổng lý văn phòng, và Giô-ách, con A-sáp là bí thư hoàng gia.

Viên tư lệnh tác chiến bảo họ, “Hãy nói với Ê-xê-chia như sau:

Đại vương A-xy-ri hỏi: Hiện nay ngươi đang tin tưởng vào cái gì? Ngươi bảo mình có kế hoạch tác chiến và sức mạnh để chiến đấu nhưng lời nói ngươi rỗng tuếch. Ngươi hiện trông cậy vào ai để chống lại ta? Nầy, ngươi hiện đang trông cậy Ai-cập để hỗ trợ mình nhưng Ai-cập là cây gậy dập. Ai tựa vào, nó sẽ đâm thủng tay. Vua Ai-cập cũng sẽ làm tổn thương những ai nhờ hắn giúp. Ngươi có thể tự hào: ‘Chúng ta nhờ cậy vào CHÚA là Thượng Đế của chúng ta,’ nhưng Ê-xê-chia đã tiêu hủy các bàn thờ và các nơi thờ phụng CHÚA. Ê-xê-chia bảo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, ‘Các ngươi chỉ được thờ phụng nơi bàn thờ nầy mà thôi.’ Bây giờ hãy lập ước với chủ ta là vua A-xy-ri: Ta sẽ cấp cho ngươi hai ngàn con ngựa nếu ngươi tìm được đủ người cỡi. Ngươi không thể thắng nổi một sĩ quan thấp kém nhất của chủ ta thì tại sao ngươi lại nhờ cậy Ai-cập để chúng cấp cho ngươi xe cộ và lính cỡi ngựa? 10 Ta đến tấn công và tiêu hủy xứ nầy là do mệnh lệnh CHÚA. Chính Ngài bảo ta đến tiêu diệt xứ nầy.”

11 Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-ách nói cùng viên tư lệnh tác chiến rằng, “Xin nói với chúng tôi bằng tiếng A-ram vì chúng tôi hiểu thứ tiếng đó. Đừng nói bằng tiếng Hê-bơ-rơ [c] vì dân trong thành có thể nghe được.”

12 Nhưng viên tư lệnh trả lời, “Chủ ta sai ta đến nói những chuyện nầy đâu phải chỉ cho các ngươi và vua các ngươi mà thôi đâu. Ngài sai ta đến để nói với những người đang ngồi trên vách thành là những kẻ sẽ ăn phân và uống nước tiểu mình như các ngươi vậy [d].”

13 Nói xong viên tư lệnh đứng la lớn bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng, “Hãy nghe lời đại vương A-xy-ri bảo,

14 ‘Ngài bảo các ngươi không nên để Ê-xê-chia phỉnh gạt mình vì người không thể nào cứu các ngươi được đâu. 15 Đừng để Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào CHÚA rằng: CHÚA sẽ giải cứu chúng ta. Thành nầy sẽ không bị trao vào tay vua A-xy-ri.

16 Đừng thèm nghe Ê-xê-chia. Vua A-xy-ri khuyên: Hãy cầu hòa với ta, hãy từ thành kéo nhau ra đầu hàng ta thì mỗi người các ngươi sẽ được tự do ăn trái nho, trái vả và uống nước của giếng mình. 17 Sau đó ta sẽ đến đưa các ngươi vào một xứ giống như xứ các ngươi, xứ đầy thóc gạo, rượu mới, bánh và vườn nho.’

18 Đừng để Ê-xê-chia gạt các ngươi bảo rằng: ‘CHÚA sẽ cứu chúng ta.’ Có thần nào của các dân khác cứu họ khỏi quyền lực của vua A-xy-ri chưa? 19 Các thần của Ha-mát và Ác-bát đâu? Các thần của Sê-phạt-va-im đâu? Chúng nó đâu có giải cứu Xa-ma-ri ra khỏi tay ta. 20 Không có một thần nào của các xứ đó giải cứu dân chúng khỏi tay ta cả. Vì thế CHÚA cũng sẽ không thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi quyền lực của ta.”

21 Dân chúng làm thinh. Họ không trả lời gì cả với viên tư lệnh vì vua Ê-xê-chia đã ra lệnh, “Đừng đối đáp gì hết với hắn.”

22 Sau đó Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-a xé quần áo mình để bày tỏ lòng đau buồn. Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia là quản lý cung vua, Sếp-na làm đổng lý văn phòng, còn Giô-a, con A-sáp làm ký lục. Ba người đi gặp vua Ê-xê-chia và thuật lại những gì viên tư lệnh tác chiến nói.

Ê-xê-chia cầu xin Thượng Đế giúp đỡ

37 Khi vua Ê-xê-chia nghe các điều đó thì ông xé quần áo và mặc vải sô. Ông liền đi vào đền thờ của CHÚA.

Ê-xê-chia sai Ê-li-a-kim, quản lý cung vua, và Sếp-na, đổng lý văn phòng, cùng các thầy tế lễ lớn tuổi đến gặp nhà tiên tri Ê-sai. Tất cả đều mặc vải sô khi họ đến gặp nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt. Họ nói với Ê-sai, “Vua Ê-xê-chia nói: Hôm nay là ngày buồn thảm, trừng phạt và hổ nhục, giống như đứa bé sắp sinh ra nhưng người mẹ quá yếu ớt, không sinh được. Vua A-xy-ri đã sai viên chỉ huy tác chiến đến sỉ nhục Thượng Đế hằng sống. Nguyện CHÚA là Thượng Đế nghe điều viên chỉ huy đó nói và trừng phạt hắn. Xin ông hãy cầu nguyện cho số ít chúng tôi được sống sót.”

Khi các sĩ quan của vua Ê-xê-chia đến cùng Ê-sai, thì Ê-sai bảo họ rằng, “Hãy nói với chủ các ngươi như sau: CHÚA phán, ‘Đừng sợ điều các ngươi nghe. Đừng kinh hoảng vì lời của các đầy tớ của vua A-xy-ri nói phạm đến ta. Nghe đây! Ta sẽ đặt một thần linh trong vua A-xy-ri. Người sẽ nghe tiếng đồn khiến người sẽ trở về xứ mình rồi ta sẽ khiến cho người chết vì gươm tại đó.’”

Quân A-xy-ri rời thành Giê-ru-sa-lem

Viên tư lệnh tác chiến nghe vua A-xy-ri đã rời La-ki. Khi trở về thì thấy vua đang vây đánh thành Líp-na. Vua nghe rằng Tiệt-ha-ca [e], vua Cu-si của Ai-cập đang kéo đến đánh mình.

Khi vua A-xy-ri nghe vậy liền sai sứ đến nói với vua Ê-xê-chia rằng, 10 “Hãy bảo Ê-xê-chia, vua Giu-đa như sau:

Đừng để thần mà ngươi tin cậy phỉnh gạt. Đừng nghe thần đó quả quyết rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không bị trao vào tay vua A-xy-ri. 11 Ngươi đã nghe điều các vua A-xy-ri làm. Họ đã chiến thắng tất cả các nước cho nên đừng tưởng rằng các ngươi sẽ an thân. 12 Các thần của những dân tộc ấy có giải cứu họ không? Tổ tiên ta tiêu diệt chúng, đánh bại các thành Gô-xan, Ha-ran, và Rê-xếp, và dân Ê-đen ở Tên-Át-xa. 13 Các vua Ha-mát và Ác-bát đâu? Vua của các thành Xê-phạt-va-im, Hê-na và Y-va đâu rồi?”

Ê-xê-chia cầu nguyện cùng Chúa

14 Khi vua Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả và đọc xong thì ông đi lên đền thờ của CHÚA. Ông mở thơ ra trước mặt CHÚA 15 và cầu nguyện: 16 “Ôi Lạy CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en, ngôi ngài ngự giữa các sinh vật bằng vàng có cánh, chỉ một mình Ngài là Thượng Đế của các nước trên đất. Ngài tạo nên trời và đất. 17 Lạy CHÚA, xin lắng tai nghe. Xin mở mắt ra nhìn. Xin hãy nghe mọi điều vua San-chê-ríp đã nói để sỉ nhục Thượng Đế hằng sống. 18 Lạy CHÚA, quả thật rằng các vua A-xy-ri đã tiêu diệt các xứ đó và đất đai chúng. 19 Họ đã ném những thần của các dân tộc đó vào lửa nhưng những thần đó chẳng qua chỉ là gỗ và đá do tay người làm ra vì thế các vua A-xy-ri đã tiêu diệt chúng. 20 Lạy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi xin hãy giải cứu chúng tôi khỏi quyền lực vua A-xy-ri để các nước trên đất biết rằng Ngài là Thượng Đế duy nhất.”

Chúa trả lời Ê-xê-chia

21 Sau đó Ê-sai, con trai A-mốt nhắn với Ê-xê-chia như sau, “CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: Ngươi đã cầu nguyện cùng ta về San-chê-ríp, vua A-xy-ri. Ta đã nghe lời khẩn cầu của ngươi. [f] 22 Đây là điều CHÚA phán nghịch cùng San-chê-ríp:

Dân cư Ít-ra-en [g] ghét ngươi và sỉ nhục ngươi;
    dân cư Xi-ôn xinh đẹp chế nhạo ngươi khi ngươi bỏ chạy.
23 Ngươi đã sỉ nhục ta và nói phạm đến ta;
    ngươi đã lên tiếng nghịch cùng ta.
Ngươi lên mặt ngạo mạn, xấc láo đối với ta,
    Đấng Thánh của Ít-ra-en!
24 Ngươi đã sai sứ đến sỉ nhục Chúa.
    Ngươi nói, ‘Nhờ vào vô số quân xa ta
    kéo lên các đỉnh núi,
lên các núi cao nhất của Li-băng.
    Ta đã đốn ngã các cây hương nam
    và các cây thông tốt nhất của nó.
Ta đã lên đến các đỉnh cao nhất
    và vào các rừng tốt nhất của nó.
25 Ta đã đào các giếng trong các nước ngoại quốc,
    và uống nước từ các giếng đó.
    Nhờ bàn chân ta,
    ta đã làm cạn khô hết các sông Ai-cập.

26 Hỡi vua A-xy-ri, hẳn ngươi đã nghe.
    Từ xưa ta, CHÚA, đã dự liệu việc nầy.
Từ lâu ta đã trù liệu việc ấy,
    bây giờ ta thực hiện chúng.
Ta đã cho phép ngươi biến các thành kiên cố có vách
    thành đống gạch vụn.
27 Dân cư các thành ấy rất yếu ớt;
    chúng nó hoảng sợ và bị xấu hổ.
Chúng như cỏ ngoài đồng, như cỏ non yếu ớt,
    như cỏ trên nóc nhà bị gió thiêu đốt trước khi mọc lên.
28 Ta biết khi ngươi nằm nghỉ,
    cả lúc ngươi đi hay đến,
và cách ngươi nổi giận nghịch ta.
29 Vì ngươi nổi giận nghịch ta,
    và vì ta đã nghe những lời xấc láo của ngươi,
ta sẽ đặt móc trong mũi ngươi
    và tra hàm thiếc vào miệng ngươi.
Rồi ta sẽ đuổi ngươi ra khỏi xứ ta
    y như cách ngươi đến.’”

30 Rồi CHÚA phán, “Hỡi Ê-xê-chia, ta sẽ cho ngươi dấu hiệu nầy: Năm nay ngươi sẽ ăn thóc lúa mọc hoang, năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc hoang từ thóc lúa đó. Nhưng đến năm thứ ba, hãy trồng trọt và gặt hái. Hãy trồng vườn nho và ăn trái.

31 Một số người trong gia đình Giu-đa sẽ trốn thoát. Giống như cây đâm rễ, họ sẽ mọc mạnh và sinh nhiều con cháu. 32 Một số người sẽ sống sót từ Giê-ru-sa-lem; một số ít từ núi Xi-ôn sẽ sống còn. Tình yêu lớn lao [h] của CHÚA Toàn Năng sẽ thực hiện điều đó.”

33 “Cho nên đây là điều CHÚA phán về vua A-xy-ri:

‘Người sẽ không vào thành nầy,
    cũng sẽ không bắn một mũi tên nào vào đây.
Người cũng sẽ không dùng khiên
    hay đắp bậc thang lên để tấn công vách thành.
34 Người đến đây thể nào
    thì cũng sẽ trở về xứ mình như thế,
    người sẽ không vào thành nầy,’ CHÚA phán vậy.
35 Ta sẽ bảo vệ và giải cứu thành nầy vì Đa-vít, tôi tớ ta.”

36 Sau đó thiên sứ của CHÚA đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong doanh trại A-xy-ri. Sáng sớm hôm sau khi người ta dậy thì thấy toàn xác chết. 37 San-chê-ríp, vua A-xy-ri liền trở về lại Ni-ni-ve.

38 Một ngày kia San-chê-ríp đang thờ lạy trong đền thờ Nít-rốc, thần của mình thì hai con trai vua là Ách-ra-mê-léc và Sa-rê-xe lấy gươm giết vua rồi trốn qua xứ A-ra-rát. Ê-xa-hát-đôn, con San-chê-ríp, lên ngôi vua A-xy-ri.

Bệnh của vua Ê-xê-chia

38 Lúc đó vua Ê-xê-chia lâm bệnh nặng gần chết. Nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt đến thăm và bảo, “CHÚA phán như sau: Hãy thu xếp mọi việc vì ngươi sẽ không sống được đâu mà sẽ qua đời.”

Ê-xê-chia xoay mặt vào vách và cầu nguyện cùng CHÚA, “CHÚA ôi, xin nhớ rằng tôi đã luôn luôn vâng lời Ngài. Tôi đã hoàn toàn dâng hiến mình cho Ngài và làm điều phải trước mặt Ngài.” Rồi Ê-xê-chia khóc thảm thiết.

Sau đó CHÚA bảo Ê-sai: “Hãy đi nói với Ê-xê-chia: ‘CHÚA là Thượng Đế của Đa-vít, tổ tiên ngươi phán như sau: Ta đã nghe lời cầu nguyện ngươi và đã thấy nước mắt ngươi. Cho nên ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm tuổi nữa. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-xy-ri; ta sẽ bảo vệ thành nầy.

CHÚA sẽ thực hiện điều Ngài phán. Đây là dấu hiệu CHÚA tỏ cho ngươi: Bóng mặt trời đã đi xuống bàn trắc ảnh của A-cha [i], nhưng ta sẽ khiến bóng đó lui lại mười nấc.’” Vậy bóng mặt trời lui lại mười nấc.

Bài ca ngợi của vua Ê-xê-chia

Sau khi Ê-xê-chia, vua Giu-đa bình phục thì ông viết bài ca nầy:

10 Tôi nói, “Tôi đang ở giữa cuộc đời tôi.
    Tôi có phải đi xuống cửa sự chết không?
Phần còn lại của đời tôi có bị lấy khỏi tôi không?”
11 Tôi thưa, “Tôi sẽ không thấy CHÚA [j] trong đất người sống nữa.
    Tôi sẽ không thấy những người sống trên đất nữa.
12 Nhà tôi đã bị phá sập và tước đoạt,
    như lều của kẻ chăn chiên.
Đời tôi chấm dứt rồi, như miếng vải của thợ dệt cuốn lại
    và bị cắt khỏi khung cửi.
Trong một ngày CHÚA đưa tôi đến đường cùng.
13 Suốt đêm tôi kêu khóc thảm thiết.
    Ngài nghiền nát xương cốt tôi như sư tử.
Trong một ngày CHÚA đưa tôi đến đường cùng.
14 Tôi kêu lên như chim
    và than vãn như chim cu đất.
Khi tôi mỏi mắt hướng về trời.
    Lạy Chúa, tôi vô cùng thất vọng.
    Xin giúp đỡ tôi.”
15 Bây giờ tôi biết nói gì?
    CHÚA đã cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra,
    và Ngài khiến nó xảy ra.
Tôi đã gặp những khốn đốn trong linh hồn tôi,
    cho nên suốt đời tôi sẽ khiêm nhượng.
16 Lạy CHÚA, vì Ngài, mọi người được sống.
    Vì Ngài, thần linh tôi cũng sống;
    Ngài chữa lành và cho tôi sống.

17 Những khốn đốn đó là ích lợi cho tôi.
    Vì Ngài rất yêu tôi, không để tôi chết
nhưng ném tội lỗi tôi đi xa.
18 Những kẻ ở âm phủ không thể ca ngợi Ngài;
    người chết rồi không thể ca hát chúc tụng Ngài;
    những ai đã qua đời không thể nào nhờ Ngài giúp đỡ.
19 Chỉ những người sống mới có thể ca ngợi Ngài.
    Họ sẽ ca ngợi Ngài như tôi ca ngợi Ngài hôm nay.
Các người cha phải thuật cho con mình
    biết rằng CHÚA giúp đỡ.
20 CHÚA đã cứu tôi, cho nên suốt đời tôi, chúng tôi sẽ gảy nhạc cụ bằng dây trong đền thờ CHÚA.

21 Rồi Ê-sai bảo, “Hãy làm chất dẻo bằng trái vả đắp lên mụt nhọt của Ê-xê-chia, vua sẽ được lành.” 22 Ê-xê-chia liền hỏi Ê-sai, “Sẽ có dấu hiệu gì cho thấy tôi sẽ đi lên đền thờ CHÚA không?” [k]

Các sứ giả từ Ba-by-lôn đến

39 Lúc đó Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan làm vua Ba-by-lôn. Ông gởi thơ và quà cho Ê-xê-chia vì nghe vua Ê-xê-chia đau và bình phục. Ê-xê-chia rất vui nên khoe với các sứ giả những vật quí trong kho mình: bạc, vàng, hương liệu, nước hoa đắt tiền, gươm và thuẫn, cùng mọi tài sản của mình. Ông khoe với họ tất cả những gì trong cung vua và trong nước.

Nhà tiên tri Ê-sai liền đi đến gặp vua Ê-xê-chia hỏi, “Mấy người nầy nói gì vậy? Họ ở đâu đến?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ đến từ một xứ rất xa, từ Ba-by-lôn.”

Ê-sai hỏi tiếp, “Họ thấy gì trong cung vua?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ thấy tất cả mọi thứ trong cung của ta. Ta khoe với họ tất cả của cải ta có.”

Ê-sai liền nói với Ê-xê-chia rằng: “Hãy nghe lời CHÚA Toàn Năng phán: ‘Trong tương lai những gì ngươi hiện có trong cung điện cùng những gì tổ tiên ngươi để dành lại cho đến hôm nay đều sẽ bị mang qua Ba-by-lôn, không chừa lại một món nào cả,’ CHÚA phán vậy. Một số con cái ngươi, tức các con sinh ra cho ngươi cũng sẽ bị đày đi làm tôi tớ [l] trong cung vua Ba-by-lôn.”

Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Những lời của CHÚA rất phải.” Vua nói vậy vì tự nghĩ, “Ít ra trong đời ta sẽ có hòa bình và an ninh.”

Sự trừng phạt Ít-ra-en sẽ kết thúc

40 Thượng Đế các ngươi phán,
    “Hãy an ủi, hãy an ủi dân ta.
Hãy nói lời hoà nhã cùng dân cư Giê-ru-sa-lem rằng
    thời kỳ phục dịch của chúng đã xong,
chúng đã trả giá cho tội lỗi mình,
    và CHÚA đã trừng phạt Giê-ru-sa-lem gấp đôi
    về mỗi tội của chúng.”

Đây là tiếng người kêu:
    “Hãy chuẩn bị đường trong sa mạc cho CHÚA.
Hãy làm thẳng lối đi trong xứ khô khan cho Thượng Đế chúng ta.
Các thung lũng sẽ được nâng lên,
    núi đồi sẽ được lấp bằng.
Đất gồ ghề sẽ được san phẳng,
    và những nơi lởm chởm sẽ được ủi láng.
Rồi vinh hiển CHÚA sẽ tỏ ra,
    mọi người sẽ thấy.
Chính CHÚA đã phán vậy.”

Có tiếng bảo, “Hãy kêu lớn!”
    Nhưng tôi hỏi, “Tôi kêu như thế nào?”
“Hãy nói rằng mọi người như cỏ,
    và vinh hiển chúng như hoa trong đồng ruộng.
Cỏ héo hoa rơi,
    khi hơi thở CHÚA thổi qua trên chúng.
Thật vậy loài ngươi giống như cỏ.
Cỏ héo hoa rơi,
    nhưng lời của Thượng Đế chúng ta sẽ còn lại đời đời.”

Sự cứu rỗi của Thượng Đế

Hỡi Xi-ôn, ngươi có tin vui phải loan báo.
    Hãy đi lên núi cao.
Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy rao lớn tin mừng.
    Hãy thông báo tin vui.
Hãy tuyên bố lớn lên đừng sợ hãi.
    Hãy nói cùng các thị trấn Giu-đa rằng,
“Thượng Đế ngươi đây.”
10 Kìa, Chúa là Thượng Đế đến với quyền năng để cai trị muôn dân.
    Nầy Ngài sẽ mang phần thưởng cho dân Ngài;
    Ngài sẽ trả công cho họ.
11 Ngài chăm sóc dân Ngài như người chăn chiên,
    Gom họ lại như chiên con bồng trong tay
    và mang họ đi sát với Ngài.
Ngài dịu dàng dẫn các chiên mẹ.

Thượng Đế cao cả

12 Ai đã lấy bàn tay đo biển cả?
    Ai đã dùng tay đo bầu trời?
Ai đã dùng chậu để lường cát bụi trên đất?
    Hay lấy cân mà cân núi đồi?
13 Ai biết ý của CHÚA
    hay có thể góp ý với Ngài?
14 Ngài cần ai giúp đỡ?
    Ai dạy cho Ngài đường ngay?
Ai dạy cho Ngài trí hiểu
    và ban cho Ngài sự thông sáng?
15 Các dân tộc đều giống như giọt nước nhỏ xíu trong thùng;
    chẳng khác nào một hạt bụi trên cân của Ngài.
Đối với Ngài các hải đảo chỉ như bụi nhuyễn trên cân.
16 Tất cả các cây trong rừng Li-băng
    không đủ để đốt làm củi trên bàn thờ,
    và các súc vật của Li-băng không đủ làm của lễ thiêu.
17 Sánh với CHÚA các dân đều không ra gì;
    đối với Ngài họ chẳng có giá trị gì cả.

Con người không thể hiểu Thượng Đế

18 Các ngươi so sánh CHÚA với gì?
    Các ngươi so Ngài với hình ảnh nào đây?
19 Thần tượng do thợ khéo làm ra,
    rồi thợ bạc bọc vàng
    và làm ra dây xích bạc cho nó.
20 Người nghèo không mua nổi các pho tượng đắt giá đó,
    cho nên đi tìm một loại cây không bị mục nát.
Rồi nhờ một người thợ khéo
    tạc thành pho tượng để không bị ngã nhào.
21 Thật vậy các ngươi vốn biết.
    Hẳn các ngươi đã nghe.
Từ ban đầu chắc đã có người
    bảo cho các ngươi biết.
    Chắc hẳn các ngươi được cho biết
    từ lúc tạo thiên lập địa.
22 Ngôi Thượng Đế ngự trên vòng trái đất,
so với Ngài, loài người giống như cào cào.
    Ngài trải bầu trời ra như tấm vải
và giăng chúng ra như cái lều
    che người ngồi bên dưới.
23 Ngài khiến những kẻ cai trị trở nên vô dụng
    và các quan án thế gian không ra gì cả.
24 Họ giống như cây cối trồng trong đất,
    như hột giống được gieo.
Vừa khi bắt đầu mọc mạnh lên,
    Ngài thổi trên chúng, chúng liền khô héo,
gió thổi chúng bay đi như trấu.
25 Thượng Đế, Đấng Thánh phán,
    “Các ngươi có thể sánh ta với ai không?
Có ai ngang hàng với ta không?”

26 Hãy nhìn lên trời,
    Ai tạo ra những vì sao đó?
Ngài kéo các đạo binh trên trời ra từng đoàn
    và đặt tên cho mỗi vì sao.
Vì Ngài mạnh mẽ và quyền năng,
    cho nên không sót ngôi sao nào.

27 Hỡi dân cư Gia-cốp, sao các ngươi phàn nàn?
    Hỡi dân Ít-ra-en sao ngươi nói,
“CHÚA không thấy thân phận tôi đâu;
    Ngài chẳng thấy tôi hay trừng phạt tôi” [m]?

28 Chắc hẳn các ngươi biết.
    Chắc chắn các ngươi đã nghe.
CHÚA là Thượng Đế hằng hữu,
    Đấng tạo nên thế giới.
Ngài không mệt mỏi hay cần nghỉ ngơi.
    Không ai hiểu được sự khôn ngoan Ngài.
29 Ngài ban sức mạnh cho kẻ mệt mỏi,
    thêm năng lực cho kẻ yếu đuối.
30 Dù cho trẻ thơ cũng mệt mỏi cần nghỉ ngơi,
    cho đến người trẻ tuổi cũng vấp ngã.
31 Nhưng ai trông cậy CHÚA sẽ sung sức.
    Họ sẽ cất lên như chim phượng hoàng tung cánh trên trời [n];
chạy mà không biết mệt;
    đi mà không đuối sức.

Chúa sẽ giúp đỡ Ít-ra-en

41 CHÚA phán, “Hỡi các xứ xa xôi,
    hãy yên lặng nghe ta.
    Các dân hãy mạnh dạn lên [o].
Hãy đến nói chuyện với ta;
    Chúng ta sẽ gặp nhau thảo luận xem ai phải.
Ai đánh thức Đấng đến từ phương Đông?
    Ai ban cho Ngài chiến thắng bốn phía?
Đấng mang Ngài lại, trao cho Ngài các dân tộc
    và đánh bại các vua.
    Ngài vung gươm thì các vua trở thành như bụi.
    Ngài bắn cung thì họ bị thổi bay như trấu.
Ngài rượt theo họ và không hề bị thương tích,
    Ngài đi mà chân không chạm đất.
Ai làm ra những chuyện đó?
    Ai nắm lịch sử từ lúc ban đầu?
Chính ta, CHÚA là Đấng ấy.
    Ta đã có đây từ ban đầu,
và ta cũng sẽ vẫn còn đây khi mọi việc kết thúc.”
Hỡi các nơi xa xăm hãy nhìn và kinh sợ;
    Hỡi các nơi xa xăm trên đất, hãy run sợ.
Hãy đến gần nghe ta.

Các người thợ giúp đỡ nhau bảo nhau rằng, “Hãy mạnh dạn lên!” Người thợ khéo giục giã thợ bạc, thợ dùng búa gõ nhẵn kim khí, khuyến khích thợ rèn làm việc với cái đe [p]. Người nói rằng, “Mối hàn nầy tốt.” Người lấy đinh đóng cái tượng vào đế để nó khỏi ngã.

Chỉ một mình Chúa mới có thể giải cứu

CHÚA phán, “Hỡi dân Ít-ra-en, các ngươi là đầy tớ ta.
    Hỡi dân cư Gia-cốp, ta đã chọn các ngươi.
Các ngươi thuộc gia đình của Áp-ra-ham, bạn ta.
Ta rút ngươi ra từ xứ xa xăm trên đất
    và gọi ngươi từ một miền xa thăm thẳm.
    Ta bảo, ‘Các ngươi là đầy tớ ta.’
Ta đã chọn ngươi và không chống nghịch ngươi.
10 Cho nên đừng sợ, vì ta ở với ngươi.
    Chớ kinh khiếp vì ta là Thượng Đế ngươi.
Ta sẽ khiến ngươi thêm mạnh và sẽ giúp đỡ ngươi;
    Ta sẽ lấy tay phải ta mà nâng đỡ và giải cứu ngươi.
11 Tất cả các dân đang nổi giận cùng ngươi
    sẽ bị hổ thẹn và nhục nhã.
Những kẻ chống nghịch ngươi sẽ biến mất.
12 Các ngươi sẽ tìm kẻ thù mình, nhưng không thấy.
    Những kẻ đối địch ngươi sẽ hoàn toàn biến mất.
13 Ta là CHÚA, Thượng Đế ngươi,
    Đấng nắm tay phải ngươi, bảo ngươi,
‘Đừng sợ hãi, ta sẽ giúp đỡ ngươi.’
14 Hỡi những kẻ sót lại trong Ít-ra-en,
    đừng sợ cho dù ngươi yếu ớt và vô dụng [q].”

CHÚA phán,
“Chính ta sẽ giúp đỡ ngươi.
    Đấng giải cứu ngươi
    là Đấng Thánh của Ít-ra-en.
15 Nầy, ta đã làm cho ngươi mới lại
    như miếng ván đập lúa có răng bén.
    Để ngươi đi trên các núi và chà đạp chúng.
Ngươi sẽ khiến đồi núi thành trấu [r].
16 Ngươi sẽ ném chúng lên trời,
    để gió thổi chúng bay đi;
gió bão sẽ phân tán chúng.
    Rồi ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA;
Ngươi sẽ hãnh diện trong Đấng Thánh của Ít-ra-en.

17 Kẻ nghèo khổ khốn cùng sẽ tìm nước,
    nhưng không tìm được.
Lưỡi họ khô vì khát.
    Nhưng ta, CHÚA sẽ đáp lời cầu nguyện của họ;
Ta, Thượng Đế của Ít-ra-en sẽ không để họ chết.
18 Ta sẽ khiến sông chảy trên đồi khô,
    và suối phun ra từ thung lũng.
Ta sẽ biến sa mạc ra hồ nước
    và đất khô thành các suối.
19 Ta sẽ khiến cây mọc trong sa mạc:
    cây hương nam, cây keo, cây sim và cây thông.
Ta sẽ đặt cây thông, cây bách,
    và cây tùng mọc chung nhau trong sa mạc.
20 Người ta sẽ nhìn thấy những điều đó và hiểu;
    họ sẽ suy nghĩ kỹ về những việc nầy.
Và biết rằng quyền năng CHÚA làm ra việc đó,
    và rằng Đấng Thánh của Ít-ra-en
    đã thực hiện các việc nầy.”

Chúa thách thức các thần giả

21 CHÚA phán, “Hãy trình bày lý lẽ ngươi ra.” Vua của Gia-cốp bảo, “Hãy cho ta thấy lý đoán của ngươi. 22 Hãy mang các thần tượng ngươi vào để chúng tiết lộ chuyện tương lai. Bảo chúng cho chúng ta biết chuyện xảy ra lúc ban đầu. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ, để chúng ta biết kết cục ra sao. Hoặc cho chúng ta biết chuyện tương lai. 23 Hãy cho chúng ta biết chuyện tương lai, thì chúng ta sẽ tin các ngươi là thần. Hãy hành động đi, dù tốt hay xấu, để chúng ta sợ hãi.

24 Các ngươi là thần vô dụng; chẳng làm được gì cả. Những kẻ thờ phụng các ngươi đáng ghê tởm [s].

Chúa chứng tỏ rằng Ngài là Thượng Đế thật

25 Ta đã mang một người đến từ phương Bắc [t].
    Ta đã gọi đích danh một người từ phương Đông,
    và người biết ta.
    Người dẫm đạp lên các vua như dẫm lên bùn,
    như thợ gốm đạp lên đất sét.

26 Ai cho chúng ta biết chuyện nầy trước khi nó xảy đến?
    Ai báo trước cho chúng ta biết để chúng ta nói,
‘Ngài đã nói đúng’?
Không ai trong các ngươi cho chúng ta biết gì cả;
không ai trong các ngươi bảo cho chúng ta
    biết trước khi việc xảy ra;
không ai nghe các ngươi nói gì về chuyện đó cả.
27 Ta, CHÚA là Đấng đầu tiên nói cho Giê-ru-sa-lem biết rằng
    dân chúng sẽ hồi hương.
    Ta sai sứ giả đến báo tin mừng cho Giê-ru-sa-lem.

28 Ta nhìn các thần tượng,
    nhưng chẳng tượng nào có thể trả lời cả.
Không ai trong chúng nó biết cho ý kiến;
    Chẳng ai trong chúng nó có thể trả lời câu hỏi ta.
29 Nầy, tất cả chúng nó đều là thần giả.
    Không biết làm gì cả;
Chúng nó thật vô dụng.”

Footnotes

  1. I-sai-a 36:2 đường dẫn nước Một rãnh hay ống dẫn nước từ nơi nầy đến nơi khác. Đây là Si-lô-ê, một đường hầm dẫn nước từ suối Ghi-hôn đến Hồ Cũ và Hồ Xi-lôm.
  2. I-sai-a 36:2 hồ trên Tức hồ Xi-lôm nằm về phía cực Nam của thành Đa-vít (Giê-ru-sa-lem), ngay phía trên hồ cũ mà bây giờ gọi là Biệt-kết an Ham-ra.
  3. I-sai-a 36:11 Hê-bơ-rơ Nguyên văn, “tiếng Giu-đa,” tức ngôn ngữ của xứ Giu-đa và Ít-ra-en.
  4. I-sai-a 36:12 là những kẻ … các ngươi vậy Đạo quân A-xy-ri dự định bao vây thành Giê-ru-sa-lem, không cho ai mang thực phẩm và nước uống vào thành. Họ dự đoán rằng dân chúng sẽ đói khát đến độ phải ăn phân và uống nước tiểu của mình.
  5. I-sai-a 37:9 Tiệt-ha-ca Đây có thể là Tiệt-ha-ca, hoàng đế (Pha-ra-ôn) Ai-cập trị vì khoảng 690–664 trước Công nguyên.
  6. I-sai-a 37:21 Ta đã nghe lời khẩn cầu của ngươi Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp và II Vua 19:20.
  7. I-sai-a 37:22 Dân cư Ít-ra-en Nguyên văn, “Các trinh nữ Xi-ôn.” Ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem (sắp bị quân A-xy-ri tấn công.) Xem “Xi-ôn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  8. I-sai-a 37:32 Tình yêu lớn lao Trong tiếng Hê-bơ-rơ mô tả chung các tình cảm mãnh liệt của con người như lòng sốt sắng, ghen tương, hay yêu thương.
  9. I-sai-a 38:8 bàn trắc ảnh của A-cha Các bực thềm trong một tòa nhà đặc biệt mà Ê-xê-chia dùng làm đồng hồ đo thời gian. Khi mặt trời rọi lên các bậc thang thì bóng của chúng cho thấy mấy giờ trong ngày.
  10. I-sai-a 38:11 CHÚA Bản Hê-bơ-rơ ghi “Gia-vê.”
  11. I-sai-a 38:22 Rồi Ê-sai bảo … CHÚA không? Hai câu nầy đáng lẽ được đặt ngay sau câu 7 thì hợp lý theo bảng tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ. Xem II Vua 20:6-9.
  12. I-sai-a 39:7 tôi tớ Hay “hoạn quan.” Xem “hoạn quan” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  13. I-sai-a 40:27 CHÚA không thấy … trừng phạt tôi Hay “Đường lối tôi bị che khuất trước mặt CHÚA. Ngài không thèm lưu ý đến tôi.”
  14. I-sai-a 40:31 như chim phượng hoàng … trên trời Người thời xưa tin rằng khi chim phượng hoàng rụng lông (và mọc lông mới) thì nó trở lại thời trẻ trung như trước. Xem Thi 103:5. Câu nầy cũng có thể dịch, “Họ sẽ bay lên cao như phượng hoàng tung cánh.”
  15. I-sai-a 41:1 hãy mạnh dạn lên Hay “hãy can đảm lên.” Xem Ê-sai 40:31.
  16. I-sai-a 41:7 cái đe Một khối thép nặng, phẳng mặt mà thở rèn đặt sắt nóng lên để đập thành hình dạng người ấy muốn.
  17. I-sai-a 41:14 yếu ớt và vô dụng Nguyên văn, “như sâu bọ.”
  18. I-sai-a 41:15 Để ngươi đi … thành trấu Dấu hiệu về sức mạnh của các kẻ thù dân Ít-ra-en.
  19. I-sai-a 41:24 đáng ghê tởm Hay “là những người ngu ngốc.” Từ ngữ nầy thường hay dùng trong tiếng Hê-bơ-rơ để mô tả những thần tượng và việc xấu xa mà Thượng Đế ghét.
  20. I-sai-a 41:25 một người đến từ phương Bắc Đây có thể là Xi-ru, vua Ba-tư. Ông ta trị vì khoảng năm 550–530 trước Công nguyên.