Add parallel Print Page Options

Đây là sứ điệp mà Ha-ba-cúc, nhà tiên tri nhận được.

Ha-ba-cúc than phiền

Lạy Chúa, tôi xin Ngài cứu giúp,
    đến khi nào Ngài mới đáp lời tôi?
Tôi kêu la cùng Ngài
    về những sự bạo ngược,
nhưng Ngài chẳng giải cứu chúng tôi!
Sao Ngài bắt tôi nhìn điều dữ
    và buộc tôi phải chứng kiến cảnh khốn khổ?
Người ta hủy phá mọi thứ
    và làm hại nhau trước mắt tôi;
    Họ cãi nhau và đánh nhau.
Cho nên những lời giáo huấn
    thật vô ích, công lý không bao giờ đến.
Kẻ ác thắng thế
    trong khi người nhân đức thất thế;
    các quan án không phân xử công bình nữa.

Chúa trả lời

“Hãy nhìn các dân!
    Hãy nhìn họ mà kinh ngạc và sửng sốt.
Trong đời ngươi ta sẽ làm một điều
    mà ngươi không tin nổi,
dù cho được nghe kể lại cũng vậy.
Ta sẽ dùng người Ba-by-lôn [a],
    những kẻ hung bạo và dã man
    tràn qua mặt đất,
    chiếm đoạt đất không thuộc về mình.
Chúng khiến kẻ khác hoảng sợ.
Chúng muốn làm gì thì làm,
    miễn có lợi cho chúng là được.
Ngựa của chúng phi nhanh hơn cọp beo,
    nguy hiểm hơn chó sói lúc chiều tà.
Các lính cỡi ngựa của chúng
    tấn công chớp nhoáng;
chúng đến từ nơi xa xăm.
Chúng tấn công chớp nhoáng,
    như chim ưng vồ mồi.
Chúng kéo nhau lại để đánh.
Không gì ngăn bước chúng được.
    Tù binh chúng nhiều như cát.
10 Chúng cười nhạo các vua,
    chế giễu các quan quyền.
Chúng xem thường các thành có vách kiên cố
    và đắp đất lên đến đỉnh vách
    để chiếm lấy các thành ấy.
11 Sau đó chúng bỏ đi như gió,
    tiến đến nơi khác gây thêm tội lỗi.
    Chúng chỉ thờ lạy sức mạnh của mình mà thôi.”

Ha-ba-cúc than phiền nữa

12 Lạy CHÚA, Ngài sống đời đời,
    lạy Thượng-Đế, Thượng-Đế chí thánh của tôi.
    Ngài sẽ không bao giờ chết [b].
Lạy CHÚA, Ngài đã chọn người Ba-by-lôn
    để trừng phạt các dân;
Lạy Khối Đá chúng tôi,
    Ngài dùng chúng để trừng phạt.
13 Mắt Chúa quá thánh khiết,
    không thể nhìn điều ác;
Ngài không chịu nổi
    khi thấy kẻ làm điều quấy.
Vậy sao Ngài để cho những điều ác đó xảy ra?
Sao Ngài im lặng
    khi kẻ ác ăn nuốt người tốt hơn chúng?

14 Ngài đối với con người như cá trong biển,
    như sinh vật giữa đại dương
    không có kẻ dẫn đầu.
15 Kẻ thù dùng móc lôi chúng vào,
    Nó bắt chúng trong lưới
    và kéo chúng vào trong lưới mình.
Vì thế nó sung sướng reo mừng.
16 Kẻ thù dâng sinh tế cho lưới nó
    và đốt hương thờ phụng nó,
    vì nhờ lưới mà đời nó sung túc
và hưởng cao lương mỹ vị.
17 Kẻ thù sẽ mãi thu của cải
    bằng lưới mình sao?
Nó sẽ tiếp tục tiêu diệt dân chúng
    mà không tỏ chút thương hại sao?

Tôi sẽ đứng chờ nơi vọng canh.
Trông đợi điều Ngài sẽ phán cùng tôi;
Tôi sẽ chờ xem Thượng-Đế trả lời tôi ra sao về lời than phiền của tôi.

Chúa trả lời

CHÚA đáp lời tôi như sau:
    “Hãy ghi lại dị tượng;
    viết rõ ràng trên bảng đá
    để cho ai đọc thì chạy đến báo cho kẻ khác.
Chưa đến thời kỳ mà sứ điệp ta được thành tựu,
    nhưng thời kỳ ấy cũng sắp đến rồi;
sứ điệp ta sắp thành tựu.
Trông có vẻ quá lâu,
    nhưng hãy kiên nhẫn chờ đợi,
    vì chắc chắn nó sẽ đến,
    không trì hoãn đâu.
Nó huênh hoang;
    ao ước của nó không chính đáng.
Nhưng người công chính sẽ sống bằng đức tin [c].

Như rượu có thể phỉnh con người,
    những kẻ tự phụ sẽ không sống lâu,
vì sự ao ước chúng nó như huyệt mả
    mong ước cái chết,
    và như thần chết tham lam.
Chúng thu gom các dân khác về cho mình
    và thu các nước khác về với mình.
Nhưng các dân nào
    đã bị người Ba-by-lôn làm hại
    sẽ cười chúng.
Họ sẽ chế giễu người Ba-by-lôn
    và bảo, ‘Khốn cho kẻ ăn cắp nhiều thứ
bắt người khác đóng góp cho mình
    để làm giàu,
Tình trạng nầy sẽ kéo dài bao lâu nữa?’

Một ngày nào đó các chủ nợ
    sẽ đứng lên nghịch ngươi.
Họ sẽ biết rõ đầu đuôi
    và sẽ khiến ngươi run sợ.
Họ sẽ chiếm đoạt hết tài sản ngươi.
Vì ngươi đã đánh cắp của nhiều dân,
    nên những kẻ còn sót lại
    sẽ chiếm của cải ngươi.
Vì ngươi đã giết hại nhiều người,
    tiêu hủy nhiều nước,
    đô thị và cư dân trong đó.
Khốn cho dân làm giàu bất chính,
    nghĩ rằng mình sẽ an toàn
    không gặp tai biến gì.
10 Vì ngươi đã âm mưu gian ác,
    làm những điều nhơ nhuốc,
    khiến cho gia đình ngươi xấu hổ về ngươi.
Cho nên chính ngươi sẽ mất mạng.
11 Các tảng đá trong vách thành
    sẽ kêu la nghịch ngươi,
thậm chí các cây đà đỡ trần nhà
    cũng nhìn nhận ngươi có tội.

12 Khốn cho dân giết người
    để xây thành, làm hại người khác
để xây thị trấn.
13 CHÚA Toàn Năng sẽ sai lửa xuống
    thiêu hủy những gì chúng xây nên;
những kỳ công chúng nó làm
    đều trở thành vô ích.
14 Rồi như nước bao phủ biển,
    dân chúng các nơi sẽ biết sự vinh hiển của Chúa.

15 Khốn cho kẻ phục rượu người láng giềng mình,
rót rượu từ trong bình ra cho họ uống
    cho đến khi họ say sưa
để nó nhìn sự trần truồng của họ.
16 Dân Ba-by-lôn các ngươi phải hổ nhục,
    không được tôn kính đâu.
Đến phiên các ngươi uống rượu
    té xuống đất như người say.
Ly thịnh nộ trên tay phải CHÚA
    đang đến trên ngươi.
Nầy quan trưởng gian ác, ngươi sẽ uống ly ấy,
    ngươi sẽ bị sỉ nhục chứ không được tôn kính đâu.
17 Ngươi đã làm hại lắm người trong Li-băng,
    nhưng nay đến phiên ngươi sẽ bị tổn hại.
Ngươi giết hại vô số súc vật nơi đó,
    nên bây giờ ngươi đâm ra sợ hãi
    vì điều mình làm cho xứ,
các đô thị, và dân sống trong đó.

Sứ điệp về thần tượng

18 Thần tượng thật vô ích
    vì do tay người làm ra;
    nó chỉ là bức tượng dạy điều dối trá.
Kẻ làm ra nó mong việc tay mình làm ra sẽ giúp mình.
Nhưng nó làm ra tượng không biết nói!
19 Khốn cho kẻ nói cùng tượng gỗ rằng,
    ‘Hãy sống dậy!’
Khốn cho kẻ bảo tượng đá trơ trơ rằng,
    ‘Hãy đứng lên!’
Tượng đó đâu có biết bảo ngươi làm gì.
    Nó chỉ là tượng bọc vàng thếp bạc;
    làm gì có sự sống.
20 CHÚA ngự trong đền thờ thánh Ngài;
    cả thế gian hãy im lặng trước mặt Ngài.”

Lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc

Sau đây là lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc theo điệu Si-ghi-ô-nốt [d].

Lạy CHÚA, tôi đã nghe uy danh Ngài;
    Tôi kinh ngạc về những điều Ngài làm.
Lạy CHÚA, xin hãy làm những việc lớn lao lần nữa trong đời chúng tôi;
Xin thực hiện những điều đó lần nữa
    trong đời chúng tôi.
Dù cho khi Ngài nổi giận,
    xin nhớ tỏ lòng nhân từ.

Thượng-Đế đến từ Thê-man;
    Đấng Thánh đến từ núi Pha-ran.
Vinh hiển Ngài bao trùm bầu trời,
    và tiếng ca ngợi Ngài phủ cả đất.
Ngài như ánh sáng chói lọi.
    Tay Ngài chiếu ra tia sáng,
    và Ngài giấu quyền lực mình trong đó.
Bệnh tật đi trước mặt Ngài,
    và đau ốm đi theo sau Ngài [e].
Ngài đứng và làm rung chuyển đất.
    Ngài nhìn thì các dân run sợ.
Các núi vốn vững bền từ lâu,
    bỗng nhiên tan vỡ;
Các đồi xưa sụp đổ,
    vì Thượng Đế làm điều ấy.

Tôi thấy các lều của người Cút
    đang gặp khốn khó
    và lều của người Mi-đi-an run rẩy.
Lạy CHÚA, Ngài nổi giận cùng sông ngòi
    hay nổi giận cùng suối nước?
Có phải Ngài nổi thịnh nộ cùng biển cả
    khi Ngài cỡi ngựa và quân xa đi đến chiến thắng chăng?
Ngài lấy cung ra khỏi bao
    và bảo mang thật nhiều mũi tên đến cho Ngài. Xê-la
Ngài dùng sông chia đất ra.
10 Các núi trông thấy Ngài liền run sợ.
    Dòng nước ào ào chảy.
Biển gầm thét ồn ào,
    và dợn sóng lên cao.
11 Mặt trời và mặt trăng
    đứng yên trong bầu trời;
chúng dừng lại khi nhìn lằn chớp của Ngài xẹt ngang.
Lằn chớp ấy như mũi tên và lưỡi giáo Ngài
    bắn qua bầu trời.
12 Ngài dẫm qua đất trong cơn giận mình;
    Ngài trừng phạt các dân trong cơn thịnh nộ.
13 Chúa bước ra để giải cứu dân Ngài,
    để cứu kẻ được Ngài chọn [f].
Ngài chà đạp lãnh tụ của những kẻ ác
    và cướp hết những gì nó có,
    từ đầu đến chân. Xê-la

14 Ngài dùng gươm của chính kẻ thù
    mà đâm kẻ chỉ huy quân đội chúng.
Binh sĩ nó túa ra như vũ bão
    để phân tán chúng tôi.
Chúng hớn hở khi bóc lột người nghèo
    một cách kín đáo.
15 Nhưng lạy CHÚA,
Ngài bước qua biển cùng với ngựa của Ngài,
    quấy động các dòng cuồng lưu.
16 Tôi nghe những điều ấy,
    lòng tôi liền run rẩy;
    môi tôi run khi tôi nghe tiếng.
Xương cốt tôi bủn rủn,
    chân tôi run.
Nhưng tôi sẽ kiên nhẫn chờ đợi
    ngày thảm họa xảy đến
    cho kẻ tấn công chúng tôi.

Hãy luôn vui mừng trong Chúa

17 Cây vả sẽ không ra trái,
    sẽ không còn trái trên dây nho.
Cây ô liu không mọc nữa,
    ruộng nương không sinh sản.
Sẽ không còn chiên trong ràn
    hay gia súc trong chuồng.
18 Nhưng tôi sẽ vẫn vui mừng trong CHÚA;
    Tôi sẽ hớn hở trong Thượng-Đế
    là Đấng Cứu Rỗi tôi.
19 Thượng-Đế, CHÚA tôi, ban sức mạnh của tôi.
Ngài khiến tôi chạy nhanh như nai.
    Ngài dẫn tôi an toàn trên các ngọn núi.

Soạn cho nhạc trưởng để dùng với nhạc khí bằng dây của tôi.

Footnotes

  1. Ha-ba-cúc 1:6 người Ba-by-lôn Nguyên văn, “người Canh-đê,” một chi tộc A-ram chiếm quyền ở Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nết-xa xuất thân từ chi tộc nầy.
  2. Ha-ba-cúc 1:12 Ngài sẽ không bao giờ chết Hay “Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế tôi cho đến đời đời! Chúng tôi sẽ không bao giờ chết.”
  3. Ha-ba-cúc 2:4 Nhưng người công chính … đức tin Câu nầy có thể dịch “Nhưng những ai làm vừa lòng Thượng Đế sẽ sống bằng niềm tin của mình,” hoặc “Người công chính sẽ sống bằng tính cách đáng tin của sứ điệp ấy.”
  4. Ha-ba-cúc 3:1 điệu Si-ghi-ô-nốt Một điệu hay một loại nhạc đặc biệt.
  5. Ha-ba-cúc 3:5 Bệnh tật … sau Ngài Đây có thể ám chỉ những bệnh tật hay thiên sứ tàn sát các con đầu lòng người Ai-cập khi Thượng Đế giải thoát dân Ít-ra-en ra khỏi ách nô lệ của Ai-cập.
  6. Ha-ba-cúc 3:13 chọn Nguyên văn, “xức dầu.”

Đây là lời CHÚA phán cùng Xô-phô-ni trong đời Giô-xia, con Am-môn làm vua Giu-đa. Xô-phô-ni là con Cu-si, cháu Ghê-đa-lia. Ghê-đa-lia là con A-ma-ria, cháu Ê-xê-chia.

Ngày xét xử của Chúa

CHÚA phán, “Ta sẽ quét sạch mọi thứ trên đất [a],”
“Ta sẽ quét sạch người và súc vật;
    Ta sẽ tiêu diệt chim trời, cá biển.
Ta sẽ tàn hại kẻ ác và tội lỗi của nó,
    và sẽ diệt loài người khỏi mặt đất,”
CHÚA phán vậy.

Tương lai của Giu-đa

“Ta sẽ trừng phạt Giu-đa
    và mọi người sống trong Giê-ru-sa-lem.
Ta sẽ cất khỏi nơi đây mọi dấu vết về Ba-anh,
các thầy tế lễ giả, và các thầy tế lễ khác.
Ta sẽ tiêu diệt những kẻ lên mái nhà
    để bái lạy các ngôi sao [b],
    cùng những kẻ thờ phụng
và thề thốt trong danh CHÚA
    lẫn thần Mô-léc,
những kẻ quay bỏ CHÚA,
    những kẻ không theo Ngài
    hoặc cầu xin Ngài hướng dẫn.
Hãy im lặng trước mặt CHÚA là Thượng-Đế,
    vì ngày Chúa phán xử dân chúng sắp đến.
CHÚA đã chuẩn bị sinh tế;
    và đã thánh hoá các khách được mời [c].
Vào ngày dâng sinh tế cho CHÚA,
    ta, CHÚA, sẽ trừng phạt các hoàng thân
và hoàng tử cùng những kẻ
    ăn mặc y phục ngoại quốc.
Trong ngày đó ta sẽ trừng phạt
    những kẻ theo thói tục dị đoan ngoại quốc [d],
những kẻ mang sự hung bạo
    và lường gạt vào nhà của chủ mình [e].”

10 CHÚA phán, “Trong ngày đó,
    sẽ có tiếng kêu khóc từ Cổng Cá.
Tiếng than vãn sẽ phát ra
    từ khu mới của thành phố,
và sẽ có tiếng đổ ầm vang dội từ các đồi.
11 Hỡi các ngươi là những kẻ ở nơi phố chợ,
    hãy kêu khóc,
vì mọi thương gia sẽ chết;
    các lái buôn bạc sẽ không còn.
12 Vào lúc đó, ta, CHÚA sẽ lấy đèn rọi kiếm trong Giê-ru-sa-lem.
Ta sẽ trừng phạt những kẻ tự mãn,
    những kẻ cho rằng,
‘CHÚA sẽ không giúp chúng ta,
    hay trừng phạt chúng ta đâu.’
13 Tài sản chúng nó sẽ bị đánh cắp,
    nhà cửa chúng nó sẽ bị tiêu diệt.
Chúng sẽ xây nhà,
    nhưng không được ở trong đó.
Chúng sẽ trồng vườn nho,
    nhưng không được uống rượu
    từ vườn nho mình.”

Ngày xét xử của Chúa

14 Ngày Chúa xét xử sắp đến rồi;
    ngày ấy sẽ đến mau chóng.
Sẽ có tiếng khóc thảm sầu
    vào ngày của CHÚA;
ngay đến chiến sĩ cũng than khóc.
15 Vì đó là ngày thịnh nộ,
    ngày kinh hoàng và khốn khó,
ngày hủy diệt và điêu tàn,
    ngày đen tối ảm đạm,
ngày mây mù và âm u,
16 giống như thời chiến tranh,
    khi dân chúng nghe kèn và tù và,
thổi lên trong các thành có vách kiên cố!
17 Chúa phán, “Ta sẽ khiến đời sống dân chúng ra cơ cực;
    họ sẽ lần mò như kẻ mù,
    vì họ đã phạm tội cùng CHÚA.
Huyết họ sẽ đổ ra như bụi đất,
    còn ruột gan họ sẽ bị ném bỏ như rác rưởi.
18 Vào ngày đó, Thượng-Đế sẽ tỏ ra cơn thịnh nộ Ngài,
dù vàng hay bạc cũng không cứu được họ.
Cơn thịnh nộ Chúa như lửa;
    Ngài sẽ tiêu diệt mọi người trên đất.” [f]

Chúa kêu gọi mọi người ăn năn

Hãy nhóm lại, tập họp lại,
    tất cả các ngươi là dân tộc
    mà Thượng Đế không thích.
Hãy nhóm lại trước khi quá trễ,
    trước khi các ngươi bị thổi bay tứ tung như trấu,
trước khi cơn thịnh nộ ghê gớm của Chúa đến cùng các ngươi,
trước ngày giận dữ của Ngài
    đến cùng các ngươi.
Hỡi tất cả các ngươi là kẻ khiêm nhường,
hãy đến cùng CHÚA,
    những ai vâng luật lệ Ngài.
Hãy làm điều phải.
    Học tập đức khiêm nhường.
May ra các ngươi sẽ thoát chết
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.

Phi-li-tin sẽ bị trừng phạt

Sẽ không còn ai sống sót trong thành Ga-xa,
    thành Ách-kê-lôn sẽ bị tiêu diệt.
Đến trưa thì Ách-đốt sẽ hoang vắng [g],
    còn dân cư Éc-rôn [h] sẽ bị đuổi đi.
Khốn cho các ngươi
    là kẻ sống bên bờ Địa-trung-hải,
hỡi các ngươi là người Phi-li-tin!
    Lời CHÚA phán nghịch các ngươi,
    hỡi Ca-na-an, xứ của dân Phi-li-tin.
“Ta sẽ tiêu diệt các ngươi
    đến nỗi không còn ai sống sót.”
Vùng đất dọc theo Địa-trung-hải
    nơi các ngươi sinh sống,
    sẽ trở thành đồng cỏ, ruộng nương cho kẻ chăn chiên.
Nó sẽ thuộc về con cháu Giu-đa
    là kẻ còn sống sót.
Họ sẽ thả chiên mình ăn cỏ ở đó,
    và ngủ đêm trong các nhà cửa
    của Ách-kê-lôn.
CHÚA là Thượng-Đế của họ
    sẽ chăm sóc họ
và phục hồi đời sống của họ.

Mô-áp và Am-môn sẽ bị trừng phạt

Ta đã nghe lời nhục mạ
    đến từ xứ Mô-áp
và những tiếng đe dọa
    của dân Am-môn.
Chúng đã sỉ nhục dân ta
    và hăm dọa chiếm xứ của dân ta.
Vì thế Đấng Toàn Năng,
    Thượng-Đế của Ít-ra-en phán,
“Thật như ta hằng sống,
    Mô-áp sẽ bị tiêu diệt như Xô-đôm,
còn Am-môn sẽ như Gô-mô-rơ—
    chỉ còn lại một đống cỏ dại,
một hầm muối, một nơi đổ nát đời đời.
    Những dân còn sống sót của ta
sẽ chiếm đoạt những gì họ muốn từ chúng nó;
dân còn sót lại của ta sẽ chiếm xứ chúng nó.”

10 Đó là giá mà Mô-áp và Am-môn
    phải trả về tội tự phụ,
vì chúng đã sỉ nhục và chế giễu
    dân tộc của CHÚA Toàn Năng.
11 CHÚA sẽ khiến chúng hoảng sợ,
    vì Ngài sẽ tiêu diệt các thần trên đất.
Rồi mọi người ở những nơi xa xôi
    sẽ đều thờ phụng Ngài.

Cút và A-xy-ri sẽ bị tiêu diệt

12 “Các ngươi là dân Cút sẽ bị gươm ta giết.”
13 Rồi CHÚA sẽ quay nghịch phương Bắc
    và tiêu diệt A-xy-ri.
    Ngài sẽ biến Ni-ni-ve trở thành hoang tàn
    và khô khan như sa mạc.
14 Các bầy súc vật
    sẽ nằm nghỉ ngơi nơi đó, cùng với các dã thú.
Chim cú và quạ sẽ đậu
    trên các trụ đá.
Chim cú sẽ kêu lên qua cửa sổ,
    Quạ sẽ đậu trên các ngạch cửa chính,
Chúng sẽ mổ và phá hư
    các đồ trang hoàng
    trên những tấm vách gỗ
    của các toà nhà.
15 Nó từng là thành nhộn nhịp và vui vẻ.
    Mọi người tưởng rằng mình an toàn.
Chúng cho rằng Ni-ni-ve là thành lớn nhất thế giới,
    nhưng nó sẽ bị tiêu hủy,
    trở thành nơi ở cho muông thú.
Người qua kẻ lại đều huýt sáo, lắc đầu chế giễu nó,
    khi nhìn thấy nó bị tiêu điều.

Giê-ru-sa-lem sẽ bị trừng phạt

Khốn cho thành Giê-ru-sa-lem
    độc ác, ương ngạnh,
là thành tự hại dân cư mình.
Nó không chịu vâng lời ai;
    không ai dạy nó làm điều phải được.
Nó không tin cậy CHÚA;
    cũng chẳng thờ phụng Thượng Đế mình.
Các viên chức nó như sư tử gầm thét.
Các quan quyền nó như chó sói đói hung hăng
    tấn công vào chiều tà,
    và đến sáng hôm sau
    chẳng chừa lại món gì.
Các nhà tiên tri nó kiêu căng;
    họ là những kẻ không thể tin cậy được.
Các thầy tế lễ nó không tôn kính
    những vật thánh;
Cố tình xuyên tạc lời giáo huấn
    của Thượng-Đế.
Nhưng CHÚA là Đấng công bằng,
    Ngài đang ngự trong thành đó.
Ngài không làm điều quấy.
    Mỗi sáng Ngài cai trị dân chúng
    một cách công minh;
Ngày nào CHÚA cũng xét xử công bằng.
    Nhưng kẻ ác không biết xấu hổ
    về điều mình làm.

Ta đã tiêu diệt các dân;
    các tháp canh nó đã bị sụp đổ rồi.
Ta khiến cho phố xá nó vắng tanh
    để không còn ai đi lại nơi đó nữa.
Các thành phố của chúng nó điêu tàn;
    không còn ai ở.
Ta nói điều nầy để các ngươi
    kính nể ta và nghe lời dạy dỗ của ta.
Nếu các ngươi học bài học ấy
    thì các ngươi sẽ không bị tiêu diệt.
Nhưng chúng vẫn cứ hăm hở
    làm chuyện ác.
CHÚA phán, “Hãy chờ đó.
Một ngày nào ta sẽ đứng lên
    làm nhân chứng.
Ta đã quyết định thu gom các dân
    và tập họp các nước.
Ta sẽ trút cơn giận ta trên chúng nó,
    trút hết cơn thịnh nộ ta.
Cơn thịnh nộ ta sẽ như lửa đốt cháy cả thế gian.

Một ngày mới cho dân Chúa

Rồi ta sẽ khiến các dân tộc khác nói ngôn ngữ rõ ràng,
và kêu cầu danh CHÚA.
    Chúng sẽ cùng nhau thờ phụng ta,
    vai sánh vai như một đoàn dân.
10 Dân chúng sẽ đổ về từ nguồn sông Nin;
    dân tản mác của ta
    sẽ mang lễ vật đến cho ta.
11 Hỡi Giê-ru-sa-lem,
    ngươi sẽ không còn bị xấu hổ
    về những điều ngươi làm nghịch lại ta,
vì ta sẽ loại bỏ giữa ngươi
    những kẻ huênh hoang;
sẽ chẳng còn có kẻ kiêu căng nữa
    trên núi thánh [i] ta.
12 Nhưng ta sẽ để lại trong thành ngươi
    những kẻ hiền từ và khiêm nhường,
    tất cả đều sẽ tin cậy CHÚA.
13 Những kẻ còn sống sót trong Ít-ra-en
    sẽ không làm quấy và nói dối nữa;
sẽ không dùng miệng mình gạt dân chúng.
Họ sẽ ăn ngủ bình yên,
    Không còn ai làm cho họ sợ hãi.”

Bài ca hân hoan

14 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy hát lên.
    Ít-ra-en ơi, hãy lớn tiếng reo vui!
Giê-ru-sa-lem ơi, hãy hớn hở
    và hết lòng mừng rỡ.
15 CHÚA đã thôi trừng phạt ngươi;
    Ngài đã đuổi kẻ thù ngươi đi rồi.
CHÚA là Vua của Ít-ra-en, ở cùng ngươi.
    Ngươi sẽ không còn lo sợ bị hãm hại nữa.
16 Trong ngày đó,
Giê-ru-sa-lem sẽ được khuyên bảo,
    “Hỡi thành Giê-ru-sa-lem, đừng sợ.
    Đừng buông xuôi.
17 CHÚA là Thượng-Đế đang ở cùng ngươi;
    Đấng Toàn Năng sẽ giải cứu ngươi.
Ngài sẽ vui về ngươi.
    Ngươi sẽ an nghỉ trong tình yêu Ngài;
Ngài sẽ hát và hớn hở về ngươi.”

18 “Ta sẽ cất sự buồn rầu đã dành cho ngươi,
    là điều khiến ngươi xấu hổ.
19 Lúc đó ta sẽ trừng phạt
    những kẻ đã làm hại ngươi.
Ta sẽ giải cứu dân ta là kẻ què quặt,
và thu nhóm dân ta
    là kẻ đã bị ruồng rẫy.
Ta sẽ ban cho họ lời ca ngợi
    và sự tôn trọng
ở những nơi nào họ đã bị làm nhục.
20 Lúc đó ta sẽ triệu tập ngươi lại;
    và sẽ mang ngươi trở về nhà.
Ta sẽ ban cho ngươi những lời ca tụng
    và sự tôn trọng từ khắp mọi dân
khi ta khiến ngươi sung túc trở lại,
    trước mắt các dân,” CHÚA phán vậy.

Footnotes

  1. Xê-pha-ni-a 1:2 đất Hay “xứ.”
  2. Xê-pha-ni-a 1:5 ngôi sao Nguyên văn, “các đạo quân trên trời.” Từ ngữ nầy có nghĩa là các ngôi sao, hành tinh, hay các thiên sứ.
  3. Xê-pha-ni-a 1:7 thánh hoá các khách được mời Hay “dặn các khách được mời phải sẵn sàng.” Câu nầy có nghĩa là ngày xét xử được ví như bữa ăn thân hữu khi các thầy tế lễ dâng sinh tế cho Thượng Đế cho nên các khách được mời phải sẵn sàng dự tiệc với Ngài.
  4. Xê-pha-ni-a 1:9 theo thói tục dị đoan ngoại quốc Nghĩa là những thầy tế lễ và những người thờ các thần ngoại quốc như Đa-gôn, hay bắt chước các thói tục của họ. Xem I Sam 5:5.
  5. Xê-pha-ni-a 1:9 nhà của chủ mình Đây nghĩa là đền thờ nơi dân chúng thờ kính Thượng Đế hay các thần giả khác.
  6. Xê-pha-ni-a 1:18 đất Hay “xứ.”
  7. Xê-pha-ni-a 2:4 hoang vắng Trong tiếng Hê-bơ-rơ thì từ ngữ nầy nghe như “Phi-li-tin.” Xem câu 6.
  8. Xê-pha-ni-a 2:4 Ga-xa, Ách-kê-lôn, Ách-đốt, Éc-rôn Các thành phố của người Phi-li-tin. Xô-phô-ni chơi chữ với tên của các thành phố nầy.
  9. Xê-pha-ni-a 3:11 núi thánh Tức núi Xi-ôn, một trong những ngọn núi mà thành Giê-ru-sa-lem được xây lên.