Add parallel Print Page Options

Ít-ra-en sẽ bị tiêu diệt

Khốn cho những kẻ sống an cư trong Giê-ru-sa-lem,
    những kẻ cảm thấy bình yên trên núi Xa-ma-ri.
Ngươi nghĩ mình là kẻ có chức trọng quyền cao
    của quốc gia hùng cường nhất trên thế giới;
Dân Ít-ra-en đến cầu cạnh ngươi giúp đỡ,
Hãy đi nhìn thành Canh-nê,
    từ đó đi đến thành lớn Ha-mát;
    rồi đi xuống Gát [a] của dân Phi-li-tin.
Ngươi không khá hơn các nước đó đâu.
    Xứ ngươi cũng chẳng lớn hơn xứ chúng.
Ngươi trì hoãn ngày trừng phạt,
    nhưng rút ngắn lại cái ngày
mà ngươi có thể làm hại kẻ khác.
Ngươi nằm trên giường cẩn ngà voi
    và duỗi người trên ghế dài mình.
Ngươi ăn thịt chiên con mềm,
    và gia súc mập béo.
Ngươi sáng tác bài ca cho đờn cầm,
    và sử dụng nhạc khí [b] như Đa-vít làm.
Ngươi uống rượu như hũ chìm,
    và dùng nước hoa thượng hạng.
Nhưng ngươi không than khóc
    về cảnh điêu tàn của Ít-ra-en,

nên ngươi sẽ là những kẻ đầu tiên bị bắt làm tù binh.
    Các ngươi đang nằm duỗi dài trên ghế,
    nhưng thời kỳ thoải mái ấy của ngươi sẽ chấm dứt.

CHÚA là Thượng-Đế đã hứa điều đó,
    CHÚA Toàn Năng phán:
“Ta ghét lòng kiêu căng của Ít-ra-en,
    ta ghê tởm những toà nhà kiên cố của chúng,
    nên ta sẽ để cho kẻ thù chiếm lấy thành
    và cướp bóc mọi thứ trong đó.

Lúc đó chỉ sẽ còn có mười người sống sót trong một nhà, nhưng rồi cũng chết. 10 Khi thân nhân đến lấy xác mang ra ngoài, người nầy sẽ gọi hỏi người kia, ‘Anh còn có xác chết nào nữa không?’

Người kia sẽ đáp, ‘Không …’ [c]

Rồi kẻ hỏi sẽ bảo, ‘Suỵt! Chúng ta không được nói đến danh CHÚA.’”

11 CHÚA truyền lệnh nầy;
    nhà cửa to lớn sẽ bị đổ nát,
còn nhà nhỏ cũng tan tành.
12 Ngựa không phi trên tảng đá,
    cũng không ai dùng bò cày đá cục.
Nhưng ngươi đã biến công bình ra thuốc độc;
    biến lẽ phải ra mật đắng.
13 Ngươi mừng rỡ vì thành Lô Đê-ba [d] bị chiếm,
    và ngươi bảo, “Chúng ta đã lấy sức mình
    chiếm thành Cạc-na-im [e].”

14 CHÚA Toàn-Năng phán,
“Hỡi Ít-ra-en, ta sẽ mang đến
    một dân nghịch ngươi để tạo khổ sở
    cho dân ngươi từ Lê-bô Ha-Mát,
ở miền Bắc cho đến thung lũng của Biển Chết ở miền Nam.”

Sự hiện thấy về cào cào

CHÚA là Thượng-Đế cho ta thấy việc sau đây: Ngài tạo ra một bầy cào cào, sau khi vua đã thu phần mùa màng đầu tiên của mình và mùa màng thứ hai bắt đầu mọc. Khi cào cào ăn hết mùa màng trong xứ, tôi thưa, “CHÚA ôi, xin tha tội cho chúng tôi. Làm sao dân Ít-ra-en sống nổi qua cảnh nầy được? Dân đó đã quá nhỏ bé rồi!”

Nên CHÚA đổi ý về việc nầy. CHÚA phán, “Chuyện đó sẽ không xảy ra.”

Sự hiện thấy về đám lửa

CHÚA cho ta thấy việc nầy: Ngài gọi lửa từ trời xuống như mưa, thiêu đốt nước sâu và sắp sửa thiêu đốt đất. Tôi vội vàng kêu lên, “Xin ngưng tay, CHÚA ôi! Làm sao Ít-ra-en sống qua cảnh nầy được? Dân nó đã quá nhỏ bé rồi.”

Nên CHÚA đổi ý về việc nầy. CHÚA phán, “Chuyện đó sẽ không xảy ra.”

Sự hiện thấy về dây thước thợ

CHÚA cho ta thấy việc nầy: Ngài đứng bên cạnh một bức tường thẳng đứng, trong tay cầm dây thước thợ [f]. CHÚA hỏi, “A-mốt, ngươi thấy gì?”

Tôi đáp, “Một dây thước thợ.”

CHÚA liền bảo, “Thấy không, ta sẽ dùng dây thước thợ trong dân Ít-ra-en để cho thấy chúng cong vẹo như thế nào. Ta sẽ không thể nào làm ngơ được nữa.

Những nơi con cháu Y-sác thờ lạy
    sẽ bị hủy diệt,
các nơi thánh của Ít-ra-en
    sẽ bị phá hủy,
ta sẽ dùng gươm tấn công
    gia đình Giê-rô-bô-am [g].”

A-ma-xia chống báng A-mốt

10 A-ma-xia, thầy tế lễ ở Bê-tên [h], trình với Giê-rô-bô-am, vua Ít-ra-en như sau: “A-mốt đang lập mưu ác nghịch vua và dân Ít-ra-en. Ông ta nói quá nhiều đến nỗi đất nầy không chịu nổi nữa. 11 A-mốt nói như sau: ‘Giê-rô-bô-am sẽ chết vì lưỡi gươm, còn dân Ít-ra-en sẽ bị bắt làm tù-binh, bị đày ra khỏi xứ mình.’”

12 Rồi A-ma-xia bảo A-mốt, “Ê nhà tiên kiến, hãy trở về Giu-đa ngay. Về đó mà nói tiên tri và kiếm ăn đi [i], 13 nhưng đừng nói tiên tri ở Bê-tên đây nữa. Chỗ nầy là nơi thánh của vua, nơi có đền thờ quốc gia.”

14 A-mốt trả lời với A-ma-xia, “Tôi không kiếm ăn bằng nghề nói tiên tri cũng chẳng thuộc vào nhóm các nhà tiên tri. Tôi sinh sống bằng nghề chăn chiên, và chăm sóc các cây sung. 15 Nhưng CHÚA rút tôi ra khỏi nghề chăn chiên và bảo tôi, ‘Hãy đi nói tiên tri cùng dân Ít-ra-en ta.’ 16 Cho nên hãy nghe lời CHÚA phán.

Ngươi bảo ta, ‘Đừng nói tiên tri
    nghịch cùng Ít-ra-en,
    hãy thôi nói tiên tri
    nghịch cùng con cháu Y-sác.’
17 Vì ngươi đã nói vậy nên CHÚA phán:
    ‘Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành,
    con trai con gái ngươi sẽ bị gươm giết.
Người khác sẽ đo ruộng đất ngươi
    và chia chác với nhau;
còn ngươi sẽ bỏ xác nơi xứ người [j].
Dân Ít-ra-en chắc chắn sẽ bị bắt
    làm tù binh và bị lưu đày
    ra khỏi quê hương mình.’”

Sự hiện thấy về trái cây chín

CHÚA cho tôi thấy việc sau: Một giỏ đựng trái cây mùa hè. Ngài hỏi, “A-mốt, ngươi thấy gì?”

Tôi thưa, “Một cái giỏ đựng trái cây mùa hè.”

Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Dân Ít-ra-en ta đã đến hồi diệt vong [k], vì ta không thể nào làm ngơ trước tội lỗi chúng nó được nữa.

Trong ngày đó, những bài ca trong đền đài sẽ biến thành nhạc đưa ma,” CHÚA phán vậy. “Người ta lặng lẽ mang xác chết chất thành đống.”

Con buôn chỉ muốn kiếm nhiều tiền

Hãy nghe đây, hỡi các ngươi là kẻ dẫm lên người khốn cùng
kẻ tìm cách tiêu diệt người nghèo khó, rồi bảo rằng,
“Chừng nào thì lễ Trăng Mới chấm dứt
    để ta có thể bán thóc lúa?
Chúng ta có thể tính thêm tiền
    mà giao hàng ít lại,
chúng ta sẽ thay đổi cân
    để lường gạt người khác [l].
Chúng ta sẽ lấy bạc mua người nghèo,
    và trả giá kẻ khốn cùng bằng một đôi dép.
Thậm chí chúng ta cũng có thể
    bán lúa mì đã bị quét khỏi sàng.”

CHÚA đã lấy danh Ngài là niềm kiêu hãnh
    của Gia-cốp mà thề,
“Ta không bao giờ quên điều dân nầy làm.
Cả xứ sẽ rúng động vì chuyện đó,
    và ai sống trong xứ sẽ than khóc kẻ quá cố.
Cả xứ sẽ dâng lên như sông Nin;
Nó sẽ bị rúng động và sẽ sụp xuống
    như sông Nin của Ai-cập.”

CHÚA phán,
    “Lúc ấy ta sẽ khiến mặt trời lặn lúc giữa trưa
    và trời đất sẽ tối tăm giữa ban ngày sáng chói.
10 Ta sẽ biến các ngày lễ lộc
    của các ngươi thành ra ngày than khóc,
    các bài hát ngươi thành bài ai ca.
Ta sẽ khiến các ngươi mặc vải sô;
    Làm cho ngươi phải cạo đầu [m].
Ta sẽ khiến nó phải than khóc
    như mất đứa con một,
và ngày tận số của nó sẽ vô cùng khủng khiếp.”

Đói khát Lời Chúa

11 CHÚA phán: “Sẽ có ngày ta tạo đói kém trong xứ.
    Dân chúng sẽ không đói vì bánh
    cũng không khát vì nước,
Nhưng sẽ đói khát lời CHÚA.
12 Chúng sẽ đi lang thang từ Địa-trung-hải
    cho đến Biển Chết,
    từ Bắc tới Đông.
Chúng sẽ tìm kiếm lời CHÚA
    nhưng không tìm được.
13 Lúc đó các thiếu nữ và thanh niên xinh đẹp
    sẽ yếu mòn vì khát.
14 Chúng sẽ hứa nguyện bên thần mình ở Xa-ma-ri [n] rằng,
‘Thật như thần của Đan [o] hằng sống …’
    và ‘Thật như thần của Bê-e-sê-ba [p] hằng sống …’
Chúng sẽ té ngã không bao giờ ngồi dậy được.”

Ít-ra-en sẽ bị tiêu diệt

Tôi thấy CHÚA đứng cạnh bàn thờ. Ngài nói:

“Hãy đập bể đầu của các trụ
    để cho ngạch cửa phải rúng động.
Hãy làm cho các trụ rơi trên đầu dân chúng;
    Ai còn sống sót sẽ bị gươm giết.
Không ai trốn được,
    không ai chạy thoát.
Nếu chúng đào sâu đến âm phủ [q],
    ta cũng sẽ móc chúng lên.
Nếu chúng trèo lên đến tận trời [r],
    Ta cũng sẽ lôi chúng xuống.
Nếu chúng trốn trên đỉnh núi Cạt-mên [s],
    ta cũng tìm ra kéo chúng đi.
Nếu chúng trốn tránh mặt ta
    dưới đáy biển,
    ta cũng sai rắn cắn chúng nó.
Nếu chúng bị kẻ thù bắt
    làm tù binh và đày đi,
ta cũng sẽ sai gươm giết chúng nó.
    Ta sẽ trông chừng chúng nó,
Nhưng trông chừng để mang họa
    cho chúng chớ không phải mang phúc.”

Sự trừng phạt dân chúng

CHÚA là Thượng-Đế chạm đến đất,
    đất liền rung chuyển.
Mọi người sống trong đất
    than khóc người chết.
Cả xứ dâng lên như sông Nin,
    và sụp xuống như sông Ai-cập.
CHÚA xây các phòng cao Ngài
    trên các từng trời;
Ngài đặt móng trên đất.
    Ngài gọi nước biển
    để chúng tràn trên đất.
Danh Ngài là CHÚA.

Chúa sẽ trừng phạt dân Ít-ra-en

CHÚA phán, “Hỡi Ít-ra-en,
    đối với ta ngươi không khác gì dân Cút,
Ta mang Ít-ra-en ra khỏi xứ Ai-cập,
    và dân Phi-li-tin ra khỏi xứ Cơ-rết,
    người A-ram ra khỏi xứ Kia [t].
Ta, CHÚA là Thượng-Đế,
    đang trông chừng nước Ít-ra-en đầy tội lỗi.
Ta sẽ diệt nó khỏi đất,
    nhưng ta sẽ không hoàn toàn tiêu diệt
    dòng dõi Gia-cốp,” CHÚA phán vậy.
“Ta đã truyền lệnh nầy
    để phân tán dân Ít-ra-en
    ra khắp mặt đất.
Giống như người sàng lúa,
    nhưng chẳng phải hột lúa nhỏ nào
    cũng lọt qua sàng.
10 Tất cả các kẻ phạm tội trong dân ta
    sẽ chết vì gươm,
    đó là những kẻ bảo,
‘Chúng ta sẽ chẳng gặp
    chuyện không may nào.’”

Chúa hứa phục hồi lại Ít-ra-en

11 “Lều của Đa-vít [u] đã sập,
    nhưng trong ngày đó ta sẽ dựng nó lại,
    và chữa những nơi sụp đổ của nó.
Ta sẽ xây lại nơi hư nát của nó,
    và phục hồi nó lại y như cũ.
12 Rồi Ít-ra-en sẽ chiếm được
    những gì còn sót lại của Ê-đôm
và của các quốc gia khác
    vốn thuộc về ta,” CHÚA phán vậy.
    Ngài là Đấng làm thành chuyện ấy.
13 CHÚA phán, “Sẽ đến thời kỳ thức ăn dư dật.
    Đang lúc gặt hái mà đã cày cấy lại.
Đang lúc ép nho mà đã trồng nho lại.
    Rượu sẽ nhễu ra từ các núi,
    và chảy ròng ròng từ các đồi.
14 Ta sẽ mang những tù binh Ít-ra-en về;
    họ sẽ xây lại những thành phố đổ nát, rồi vào cư ngụ trong đó.
Họ sẽ trồng vườn nho và uống rượu từ nó;
    Họ sẽ trồng vườn cây và ăn hoa quả từ nó.
15 Ta sẽ trồng dân ta trên đất,
    họ sẽ không còn bị bứng đi khỏi đất
    mà ta ban cho họ nữa,”
CHÚA là Thượng-Đế các ngươi phán vậy.

Footnotes

  1. A-mốt 6:2 Canh-nê, Ha-mát, Gát Những thành lớn của Ba-by-lôn, Xy-ri, và Phi-li-tin đã bị quân A-xy-ri chiếm cứ.
  2. A-mốt 6:5 sử dụng nhạc khí Hay “sáng tác.” Từ ngữ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “suy tư” hay “thành thạo.”
  3. A-mốt 6:10 Không … Nguyên câu là “Không, cám ơn Chúa,” nhưng câu ấy bị gián đoạn hay cắt đứt bởi một người khác.
  4. A-mốt 6:13 Lô Đê-ba Nghĩa là “không có gì cả.”
  5. A-mốt 6:13 Cạc-na-im Nghĩa là “cái sừng.” Đó là dấu hiệu của sức mạnh.
  6. A-mốt 7:7 dây thước thợ Một sợi dây có cột một vật nặng ở một đầu để đo độ thẳng của bức tường. Có khi người ta bôi phấn hay sơn để vẽ đường thẳng.
  7. A-mốt 7:9 Giê-rô-bô-am Vua của Ít-ra-en. Xem câu 10.
  8. A-mốt 7:10 Bê-tên Một thị trấn trong Ít-ra-en. Bê-tên nghĩa là “nhà của Thượng Đế.”
  9. A-mốt 7:12 Về đó … kiếm ăn đi A-ma-xia tưởng A-mốt là nhà tiên tri chuyên nghiệp, nói tiên tri để được trả thù lao bằng tiền hay thức ăn.
  10. A-mốt 7:17 xứ người Nguyên văn, “nơi không tinh sạch.”
  11. A-mốt 8:2 hồi diệt vong Hay “đến đường cùng.” Trong tiếng Hê-bơ-rơ cụm từ nầy nghe như “trái cây mùa hè.”
  12. A-mốt 8:5 Chúng ta … gạt người khác Nguyên văn, “Chúng ta sẽ làm cho ê-pha nhỏ lại và làm cho đồng sê-ken lớn lên.”
  13. A-mốt 8:10 cạo đầu Người ta cạo đầu để tỏ sự buồn rầu.
  14. A-mốt 8:14 thần mình ở Xa-ma-ri Tức là con bò vàng mà họ thờ ở Xa-ma-ri.
  15. A-mốt 8:14 Đan Một trong những nơi thánh của Ít-ra-en nằm trong thành phố nầy.
  16. A-mốt 8:14 Bê-e-sê-ba Một thị trấn trong Giu-đa. Bê-e-sê-ba nghĩa là “giếng thề nguyện.”
  17. A-mốt 9:2 âm phủ Nguyên văn, “Sê-ôn, nơi người chết ở.”
  18. A-mốt 9:2 trời Hay “thiên đàng.”
  19. A-mốt 9:3 núi Cạt-mên Một ngọn núi ở phía Bắc Ít-ra-en. Tên núi nầy nghĩa là “vườn nho của Thượng Đế.” Đó là một vùng đất phì nhiêu.
  20. A-mốt 9:7 Kia Nơi xuất phát của quân A-ram và cũng là nơi quân A-xy-ri bắt họ đi đày. Có nhiều nơi mang tên địa danh nầy.
  21. A-mốt 9:11 Lều của Đa-vít Đây có lẽ là thành Giê-ru-sa-lem hoặc xứ Giu-đa.